Mở đầu bài thơ"Ông đồ", nhà thơ Vũ Đình Liên viết: "Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già" và kết thúc bài thơ là: "Năm nay đào lại nở Không thấy ông đồ xưa" 1). Theo em, cách viết lặp lại hình ảnh như vậy gọi là thủ pháp nghệ thuật gì? 2). Nội qui diễn đàn F319.COM - topic giải quyết thắc mắc và yêu cầu. Chuyên đề xử lý các nicks đưa thông tin mời chào, quảng cáo vào chữ ký/nội dung bài viết. ILA - Hoàng Cát Group và Dat Xanh Premium ký kết hợp tác chiến lược toàn diện. Diễn đàn. Liên kết nhanh. Tìm kiếm. Hôm nay có gì? Mục lục Soạn văn 7 Mục lục Soạn văn lớp 7 Tập 1 Mục lục Soạn văn lớp 7 Tập 2 Bài mở đầu Nội dung sách Ngữ văn 7 Cấu trúc của sách Ngữ văn 7 Bài 1: Truyện ngắn và tiểu thuyết Kiến thức ngữ văn trang 13, 14 Người đàn ông cô độc giữa rừng Buổi học cuối cùng Thực hành tiếng Việt trang 26 Dọc đường Bài thơ "Ông đồ" được Vũ Đình Liên viết khi Nho học bị thất sủng, văn hóa xin chữ ông đồ đã lụi tạn khi người ta chạy theo thời đại mới với chữ Pháp chữ Tây. Dẫu biết rằng tiến lên là quy luật nhưng nỗi buồn cũ về một thời đã qua mang lại nhiều đồng cảm, tiếc thương ở độc giả. Năm 1936 Vũ Đình Liên nổi danh với bài thơ Ông đồ của Baudelaire, một công trình nghiên cứu và dịch sau gần 40 năm của Vũ Đình Liên đã được tặng giải Vũ Đình Liên rất mê Baudelaire. Ông đã dịch "Những bông hoa ác" và hàng trăm bài thơ của tác giả này. Ông say mê Thế nhưng câu chuyện về tình cảm giữa con người và động vật cũng được vô số nhà văn, nhà thơ ghi lại hết sức cảm động, đặc biệt phải nhắc đến nhà văn Vũ Hùng với đoạn trích "Ông Một" trong chương trình trung học cơ sở. Đoạn trích trong "Ông Một" nằm m6BXf. A. MỞ ĐẦU LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong chương trình ngữ văn ở bậc THCS, học sinh được tiếp cận nhiều tác phẩm thơ Dân gian, Trung đại, Hiện đại. Chúng ta biết rằng phương thức chủ yếu của thơ là phương trữ tình, nếu văn xuôi phản ánh cuộc sống qua cốt truyện và nhân vật, thì thơ phản ánh những vấn đề xã hội thông qua đời sống tâm thế của người nghệ sỹ qua cảm xúc của nhà thơ. Vậy, giảng dạy một tác phẩm thơ, giáo viên không có con đường nào khác là phải tiếp cận với cách cảm, cách nghĩ, cách giải quyết cuộc sống thông qua cảm hứng chủ đạo của nhà thơ thể hiện một cách sáng tạo trong từng tác phẩm. Rõ ràng, trách nhiệm của giáo viên Ngữ văn từ cách cảm, cách nghĩ của mình mà định hướng giúp học sinh vừa thẩm nhận giá trị thẩm mỹ vừa thu hoạch lí tưởng nhân văn của tác giả. Qua đó giúp các em đồng sáng tạo với người nghệ sỹ để các em trải qua một qui trình tự nhận thức để hướng thiện, hướng mỹ trong quá trình thu gom hành trang cuộc sống. Nhà thơ Vũ Đình Liên xuất hiện trong thời kì đầu của phong trào Thơ mới bên cạnh những tác giả có tên tuổi khai sáng như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Nguyễn Nhược Pháp…. Bài thơ “Ông đồ” là tác phẩm đặc sắc nhất trong sự nghiệp sáng tạo thi ca của Vũ Đình Liên. Ngay từ khi ra đời tác phẩm được hai nhà nghiên cứu phê bình Hoài Thanh, Hoài Chân đánh giá là “bài thơ kiệt tác”. Trong chương trình Ngữ văn 8 cả cũ và mới đều đưa bài thơ “Ông đồ” vào chương trình chính khóa vừa thấy được vai trò cũng như giá trị giáo dục, giáo dưỡng của bài thơ trong chương trình cấp học. Trong bài thơ với một tấm lòng giàu trắc ẩn, nhà thơ đã nhận ra một sự thật là phần đông các nhà nho còn sót lại chỉ đáng thương Nhà thơ từng tâm sự khi viết về bài thơ này hình tượng ông đồ “chính là cái di tích tiều tụy của một thời tàn” và gián tiếp Vũ Đình Liên chỉ cho ta thái độ hợp lí hơn đối với một lớp người trí thức đi trước. Bài thơ được xem là một nghĩa cử. Đưa bài thơ vào chương trình cấp học có ý nghĩa giáo dục sâu sắc thông qua hình tượng ông đồ nhắc nhủ học sinh có thái độ ứng xử đúng đắn với nhà nho, đạo Nho và rộng hơn là với nền văn hóa của dân tộc đồng thời bồi dưỡng tâm hồn các em về tình nhân ái cao đẹp. 1 Điều đáng quan tâm bài thơ “Ông đồ” là một bài thơ trữ tình sâu sắc, giàu sức ám ảnh nhưng lại là một bài dạy khó. Bởi, những vấn đề trong bài thơ không gần gũi, thậm chí xa lạ với học sinh thời nay. Hơn thế, bài thơ có sự dồn nén về ngôn từ, lẫn tứ thơ, có rất nhiều khoảng lặng, gợi ra nhiều cách hiểu. Nên khi giáo viên tiếp cận với bài thơ để tìm một mạch đi đúng quả là một thách thức. Từ cơ sở lí luận và thực tiễn đó, tôi nghiên cứu về tác giả, tác phẩm, đặt tác phẩm trong quá trình sáng tác của tác giả, đặt tác giả trong thi pháp chung của trào lưu lãng mạn mà cụ thể là của phong trào Thơ mới để thể nghiệm trong quá trình định hướng khai thác bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên. DUNG I. THỰC TRẠNG GIẢNG DẠY 1. Khảo sát yêu cầu và định hướng của sách giáo khoa và sách giáo viên của lớp 8 cũ và mới Sự gợi ý và định hướng của sách giáo khoa và sách giáo viên cũ và mới đều có chung một quan điểm + 4 khổ thơ đầu của bài thơ đều miêu tả hình ảnh ông đồ ngồi viết câu đối bán trên hè phố ngày Tết qua cảm nhận của nhà thơ, nhưng ông đồ ở 2 khổ đầu và hình ảnh ông đồ ở 2 khổ sau là hai số phận, hai tâm trạng hoàn toàn khác nhau - Hai khổ thơ đầu là hình ảnh ông đồ trong thời đắc ý của mình. Tết đến hoa đào nở lại thấy ông đồ cùng mực tàu, giấy đỏ bên hè phố, góp mặt vào sự đông vui, náo nhiệt của phố phường. Ông trở thành trung tâm của mọi sự chú ý, là đối tượng của sự ngưỡng mộ của mọi người. - Hai khổ thơ tiếp theo hình ảnh ông đồ thời tàn. Vẫn là hình ảnh ông đồ với mực tàu giấy đỏ bên hè phố ngày Tết, nhưng tất cả đã khác xưa. Đường phố vẫn đông người qua nhưng không ai biết đến sự có mặt của ông. Ông vẫn cố bám lấy sự sống, vẫn muốn có mặt với cuộc đời nhưng cuộc đời thì đã quên hẳn ông. 2 + Qua sự tương phản giữa hai cảnh tượng cùng miêu tả ông đồ ngồi viết câu đối ngày Tết và khổ cuối để thấy rõ tâm tư của nhà thơ Tâm tư ấy được bộc lộ kín đáo qua những chi tiết miêu tả, nhưng có khi được nhà thơ trực tiếp phát biểu 2 câu thơ kết. Đó là niềm thương cảm chân thành đối với hoàn cảnh ông đồ đang tàn tạ trước sự thay đổi của thời cuộc, đồng thời đó còn là niềm nhớ nhung luyến tiếc trước những cảnh cũ người nay đã vắng bóng của nhà thơ. Như vậy, theo định hướng của sách giáo viên văn 8 cũ và mới đều tập trung phân tích hình tượng ông đồ qua cảm nhận của nhà thơ để từ đó thấy rõ tâm tư, tình cảm của Vũ Đình Liên trước thân phận con người và sự đổi thay của thời cuộc. Đó là một định hướng đúng. Song, cách hiểu hình ảnh ông đồ trong hai khổ đầu là thời kì đắc ý của ông đồ e là chưa thỏa đáng. Bởi, hình tượng ông đồ trong bài thơ ngay từ đầu đã là “di tích của một thời tàn”. Sự xuất hiện của ông đồ đã gắn với một thời điểm thời điểm ông đi viết thuê, những nét chữ “phượng múa rồng bay” kia là để bày bán trên hè phố. Và qua hình tượng ông đồ trong bài thơ, nhà thơ không chỉ thể hiện niềm thương cảm cho số phận bất hạnh của một kiếp người mà còn là nỗi niềm hoài cổ lắng sâu. Trong những vui buồn, được mất của đời sống dân tộc, niềm tiếc thương cho những giá trị tinh thần của một thời vẫn là những ám ảnh day dứt với tất cả những tấm lòng biết trân trọng nhữnh giá trị tinh hoa của dân tộc. Do vậy, bài thơ “ Ông đồ” rung cảm sâu xa tâm hồn bao bạn đọc bởi nó gắn liền với một lớp người đáng kính, với một nét văn hóa đã ăn sâu vào tiềm thức nhiều thế hệ người Việt. Như vậy, khi nhắc đến hình ảnh ông đồ là “đánh động trong chúng ta nỗi buồn hoài cổ, sự tiếc nuối quá khứ vàng son, lòng thương xót số phận hẩm hiu của những nhà nho…Nó chứa đựng cả một hệ vấn đề bi kịch của sự gặp gỡ Đông-Tây, sự suy vong và cáo chung của một thời đại, sự biến mất vĩnh viễn của một lớp người”. Như vậy, định hướng khai thác bài thơ “Ông đồ” của sách giáo viên chưa thể hiện rõ mạch cảm xúc của chủ thể trữ tình và dường như là giảm đi sức ngân vang của thi phẩm trong lòng người đọc. 2. Thực tiễn dạy học của giáo viên Tuy định hướng chưa thật thỏa đáng như đã nói ở trên, nhưng trong cách trình bày của sách giáo viên đã có sự gợi ý khá chi tiết, đầy đủ, tạo hệ thống mạch đi rõ, cộng 3 với quan niệm của đa số giáo viên sách giáo viên bao giờ cũng đúng và chuẩn do vậy giáo viên chủ yếu dựa vào định hướng khai thác và sự gợi ý ấy để tìm hiểu tác phẩm mà chưa có sự trăn trở nhiều để tìm ra một hướng đi thích hợp cho bài dạy của mình. Chính vì lệ thuộc vào những gợi ý và định hướng khai thác của sách giáo viên nên giáo viên trực tiếp giảng dạy chưa chủ động đặt ra nhiều suy nghĩ ông đồ trong bài thơ biểu tượng cho điều gì? Sự thất thế tàn lụi của ông đồ nêu vấn đề gì? Để từ đó thẩm thấu sâu sắc tình cảm và nỗi lòng của Vũ Đình Liên kí thác trong bài thơ. Hơn nữa, điều đáng chú ý là bài thơ là tiếng lòng của một người thuộc thế hệ trí thức Tây học trẻ tuổi Vũ Đình Liên sinh năm 1913, làm bài thơ này khi mới 23 tuổi – khi đang còn rất trẻ, chưa có nhiều trải nghiệm đang lặng lẽ xót xa để viết, để ngậm ngùi, thương cảm trước “cái cảnh thương tâm của một nền nho học lúc mạt vận”. ĐỔI KINH NGHIỆM GIẢNG DẠY BÀI THƠ “ÔNG ĐỒ” 1. Phần chuẩn bị a. Một số yếu tố ngoài văn bản giáo viên cần nghiên cứu để hỗ trợ cho bài giảng * Vài nét về phong trào thơ mới 1 Thơ mới thuộc trào lưu văn học lãng mạn 30 -45 Ở giao đoạn này có sự phát triển của nhóm Tự lực văn đoàn chuyên viết văn xuôi và phong trào thơ mới 2 Về khái niệm thơ mới + Đây là khái niệm có tính chất qui ước do Phan Khôi dùng đầu tiên trong bài viết “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ” năm 1932. Trong bài viết này Phan Khôi dùng khái niệm thơ mới để đối lập với thơ cũ. + Khái niệm thơ mới gắn với phong trào thơ mới – buổi bình minh của thơ ca Việt Nam hiện đại. + Thơ mới là cuộc cách mạng về thơ ca. Cuộc cách mạng này không chỉ là nội dung hay hình thức mà gồm cả hai gắn bó mật thiết với nhau “Thơ ta phải mới, mới về văn thể, về ý tưởng”. + Thơ mới là một bước phát triển quan trọng thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nền văn học Việt Nam. 3 Đặc điểm của thơ mới a Về nội dung cảm hứng 4 + Thơ mới là tiếng nói khẳng định của cái tôi cá nhân, cá thể. Cái tôi được đưa lên bình diện đầu tiên – Cái tôi giàu khát vọng khát vọng khẳng định bản thân trong đời sống, khát vọng về một thế giới ước mơ lí tưởng. Trước hết trong những bài thơ của thơ mới đã bộc lộ khát vọng được sống là mình – một khát vọng rất nhân bản. Thơ mới là một cuộc đi tìm mình do vậy trong những bài thơ mới xuất hiện nhiều định nghĩa về cái tôi “Tôi là người bộ hành phiêu lãng/ đường trần gian xuôi ngược để vui chơi”, “Ta là một là riêng là thứ nhất/Chẳng có ai bè bạn nổi cùng ta”…Chính lúc cái tôi được giải phóng, nó có quyền lựa chọn và tự lựa chọn. Lúc ấy con người được tự do phơi trải lòng mình, nói cho hết nói cho nhiều mong một sự cảm thông bù đắp.. Do vậy âm điệu buồn tràn ngập các bài thơ. Đó là cái buồn của thế hệ trí thức tiểu tư sản lúc bấy giờ đang loay hoay với cái tôi bản ngã, thấy mình cô đơn, buồn đau, bất lực. Với những thất vọng cô đơn buồn đau ấy, cái tôi thoát li thực tại tìm đến thế giới ước mơ của cái đẹp. Những tâm hồn lãng mạn chạy trốn cuộc đời đã tìm vào cõi tiên , thoát li vào tình yêu, thiên nhiên hay vào tôn giáo. Giấc mộng thoát li ấy vừa cho ta thấy được vẻ đẹp của tâm hồn lãng mạn vừa hiểu hơn về tâm sự nỗi lòng của những trí thức tiểu tư sản trong cảnh nước mất nhà tan. Chính sự xuất hiện của cái tôi cá nhân đã làm nên cái mới của thơ ca lãng mạn“với dáng dấp mới, nhịp đập mới, sinh khí mới, thơ mới đã trả lại linh hồn và sức sống cho thơ ca”. + Như vậy, với sự khẳng định của cái tôi cá nhân thơ mới đã thể hiện được khát khao dân chủ của thời đại Bên cạnh đó Thơ mới còn thể hiện tinh thần dân tộc kín đáo nhưng sâu sắc Yêu Tiếng Việt, yêu quê hương đất nước, yêu những phong tục tập quán, nhớ tiếc thời vàng son của dân tộc… Thơ mới còn bày tỏ lòng yêu thương những số phận vất vả, tình cảm xót xa trước những biến đổi của cuộc đời… để rồi tự cảm thương mình. Và thể hiện tình yêu cuộc sống, gắn bó với cuộc đời. b Về hình thức nghệ thuật + Phương thức trữ tình trong thơ mới là cái tôi trực tiếp xưng danh. Cái tôi nhà thơ là chủ thể do vậy cái nhìn nghệ thuật có dấu ấn cá thể hóa rất cao. Nó chi phối toàn 5 bộ cách sử dụng ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, nhịp điệu trong việc xây dựng hình tượng thơ. + Cũng chính vì vậy, thơ mới đã cởi bỏ những ràng buộc có tính qui phạm của thơ cũ vần, luật, số câu, số chữ, nhịp, giọng điệu… Thơ mới đã căn bản cải tạo thơ trữ tình Tiếng Việt từ điệu ngâm sang điệu nói. + Thơ mới là một cuộc cách tân về thể loại. Thơ mới sử dụng thể thơ truyền thống với những đổi mới về vần, nhịp và sáng tạo thể thơ mới Thể thơ 8 chữ Thơ mới vừa biết cách tân, đổi mới vừa biết giữ gìn, khai thác những tinh hoa của thơ truyền thống. “Thơ mới thực sự đã trả lại linh hồn và sức sống cho thơ ca”. * Tác giả Vũ Đình Liên sinh ngày 12 tháng 11 năm 1913- mất ngày 18 tháng 1 năm 1996 Ông sinh tại Hà Nội, quê gốc ở thôn Châu Khê, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, đỗ tú tài trường Bưởi năm 1932. Ông là một nhà thơ, nhà giáo nhân dân Việt nam Ông từng dạy học ở các trường tư thục Thăng Long, Gia Long, Trường nữ sinh Hoài Đức để kiếm sống, ông học thêm trường Luật. Ông tham gia giảng dạy nhiều năm và từng là chủ nhiệm khoa tiếng Pháp trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Ông được nhân danh hiệu nhà giáo nhân dân năm 1990. Như đã nói ở phần mở đầu,Vũ Đình Liên tham gia phong trào thơ mới ngay từ ngày đầu. Năm 1936 ông được biết đến với bài thơ "Ông đồ" đăng trên báo Tinh Hoa Ông rất say mê thơ Bôđơle, chịu ảnh hưởng sâu sắc của Bôđơle. Mọi người gọi ông thân mến là “Bô đơ Liên”, “Bô đơ le Việt Nam”. Hai nguồn thi cảm chính là của ông là lòng thương người và tình hoài cổ. Mặc dù được biết đến trong phong trào Thơ mới nhưng Vũ Đình Liên chưa xuất bản một tập thơ nào. Những bài thơ hiếm hoi được biết đến của ông đều mang nặng nỗi niềm hoài cổ, về luỹ tre xưa, về thành quách cũ và "những người muôn năm cũ". Hoài niệm của ông cũng là nỗi niềm của nhiều người và bức tranh bằng thơ về Ông Đồ vẫn sẽ còn tồn tại với thời gian. Ngoài thơ ông còn hoạt động trong lĩnh vực lý luận, phê bình văn học và dịch thuật. Ông là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt nam. * Những tác phẩm chính Một số bài thơ Ông đồ, Lòng ta là những hàng thành quách cũ, Luỹ tre xanh, Người đàn bà điên ga Lưu xá... 6 - Đôi mắt 1957 - Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam cùng Nhóm Lê Quý Đôn-1957 - Nguyễn Đình Chiểu 1957 - Thơ Baudelaire dịch-1995 b. Phần nghiên cứu văn bản * “Ông đồ” là bài thơ tiêu biểu nhất cho hồn thơ giàu thương cảm của Vũ Đình Liên. Hội tụ hai nguồn thi cảm chính trong thơ Vũ Đình Liên “lòng thương người và tình hoài cổ”. Và bài thơ “Ông đồ” đã có vị trí xứng đáng trong phong trào Thơ mới. Được đánh giá là một kiệt tác. * Hoàn cảnh sáng tác Bài thơ ra đời vào năm 1936 – được đăng trên báo Tinh hoa + Hoàn cảnh xã hội Những năm đầu của thế kỉ XX, với luồng gió mới ào ạt của văn hóa phương Tây, với sự thay đổi của rường cột xã hội, nền Hán học và chữ Nho ngày càng mất vị thế quan trọng trong đời sống văn hóa xã hội Việt Nam. Chế độ khoa cử phong kiến bị bãi bỏ khoa thi hưong cuối cùng ở Bắc kì là vào năm 1915, cả thành trì văn hóa cũ hầu như sụp đổ. Và các nhà nho từ chỗ là nhân vật trung tâm của đời sống văn hóa dân tộc, được xã hội tôn vinh, bỗng trở nên lạc bước trong thời đại mới, bị cuộc đời bỏ quên và cuối cùng là vắng bóng. + Hoàn cảnh tâm thế của nhà thơ Nhà thơ là một trí thức Tây học trẻ tuổi, có mặt ngay từ đầu trong phong trào Thơ mới. Vũ Đình Liên với hồn thơ hồn hậu luôn sẵn có tấm lòng cảm thương, trắc ẩn chân thành với những số phận con người bất hạnh. Ông tự nhận mình là “thi sỹ của những thân tàn ma dại”. * Thể thơ năm chữ ngũ ngôn gồm nhiều khổ, mỗi khổ 4 câu khác với ngũ ngôn tứ tuyệt có khả năng diễn tả phong phú. Nhưng thích hợp nhất với việc diễn tả tâm tình sâu lắng. Trong bài thơ này, thể thơ năm chữ ngũ ngôn rất phù hợp với việc diễn tả cảm xúc, tâm tư của nhà thơ. * Hình tượng nghệ thuật trung tâm của tác phẩm là hình tượng “ông đồ”. Qua hình tượng ông đồ, tác giả kí thác nỗi ngậm ngùi day dứt trước sự tàn tạ vắng bóng của ông đồ - con người của một thời đã qua. “Ông đồ chính là di tích tiều tụy, đáng thương của một thời tàn” như tác giả đã nói. Chọn hình tượng ông đồ là đối tượng trữ 7 tình đã chứa đựng cả một vấn đề lớn số phận của nền văn hóa dân tộc và những bước thăng trầm của lịch sử. Tự thân hình tượng ông đồ trong bài thơ cũng đã chở tải nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ Vũ Đình Liên. Trước khi phân tích bài thơ, giáo viên cần dành thời gian để giới thiệu về nhân vật ông đồ trong đời sống văn hóa xã hội của người Việt Nam xưa Ông đồ là người Nho học nhưng không đỗ đạt, sống thanh bần bằng nghề dạy học. Những năm 30 của thế kỉ XX thì vị trí của các thầy đồ dạy chữ nho hầu như không còn nữa. Và người ta chỉ thấy ông khi tết đến với cái câu đối phong tục treo câu đối đỏ một năm một lần. 2. Định hướng khai thác Trong bài thơ, ông đồ là hình tượng nghệ thuật đặc sắc diễn tả thân phận bị chối từ của một lớp người nho học trong những năm biến động văn hóa lớn lao đầu thế kỉ XX. “Ông đồ là di tích tiều tụy của một thời tàn”, là một tứ thơ chở tải niềm thương cảm chân thành trước số phận bi kịch của một lớp người trong cảm hứng hoài cổ tiếc nuối cảnh cũ người xưa, ngậm ngùi sám hối trước cái cảnh thương tâm của một nền nho học lúc mạt vận. Như vậy, ông đồ là đối tượng trữ tình để nhà thơ kí thác nỗi niềm, tâm trạng. Để thẩm nhận được sâu sắc, trọn vẹn tư tưởng tình cảm của nhà thơ ở trong bài thơ không thể tách rời cách hiểu về vai trò của ông đồ trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc gắn với nền nho học. A. Mạch cảm xúc Cảm nhận của tác giả về hình ảnh ông đồ qua thời gian B. Mạch cảm xúc đó được thể hiện qua 3 tiết đoạn - Hai khổ thơ đầu Khổ 1,2 - Hai khổ thơ tiếp Khổ 3,4 - Khổ thơ cuối 1. Khổ 1,2 Ở khổ thơ 1,2 cần thấy rõ hình ảnh ông đồ được gắn với một thời điểm ông đi viết thuê, những nét chữ phượng múa rồng bay kia chỉ để bày bán trên hè phố. Trong khung cảnh của dịp tết đến xuân về, hoa đào khoe sắc thắm, phố phường đông vui, tấp nập, hình ảnh ông đồ xuất hiện bên hè phố bán chữ trên giấy điều cho những ai còn yêu lối chữ tượng hình và âm hưởng của một thời xa đã cho ta thấy một bước suy tàn của nền Nho học. Bởi, ông đồ từ thư phòng trang nghiêm đã phải lận đận ra tận hè phố để kiếm sống bằng việc bán chữ. Bán chữ là cái cực của kẻ sỹ ở mọi thời. 8 Nhưng dẫu sao mọi người còn chuộng phong tục tết đến xuân về treo câu đối đỏ trên vách để trang hoàng nhà cửa và ông đồ vẫn được mọi người tìm đến “Bao nhiêu người thuê viết / Tấm tắc ngợi khen tài”. Với mực tàu giấy đỏ, với những câu đối đỏ, hình ảnh ông đồ gợi lại một phong tục đẹp của ngày tết cổ truyền. Người thuê viết lúc ấy cũng còn đông đảo lắm, họ hào phóng khen ngợi tài của ông mà cụ thể là tài viết chữ như “phượng múa rồng bay”. Những nét chữ thật sống động, dường như cái hồn của người viết đang truyền lên từng con chữ. Lúc này người thuê viết lẫn người viết thuê đều biết trọng cõi tinh thần, hướng đời sống vào những vẻ đẹp thanh cao. Có lẽ ông đồ cũng tìm được cho mình một niềm vui nho nhỏ của kẻ viết thuê được công chúng mến mộ. Nền nho học tuy đã suy tàn nhưng vẫn còn hiện diện trong một phong tục đẹp, chữ nho vẫn còn tồn tại trong một góc của đời sống tinh thần của con người. Như vậy, hình ảnh ông đồ gắn với phong tục đẹp chỉ là một sự an ủi cuối cùng cho sự tàn tạ của một nền nho học. Nói một cách khác, ngay ở hai khổ thơ đầu ông đồ cũng đã là “di tích của một thời tàn” tuy chưa lộ hết vẻ tiều tụy đáng thương. Hiểu như vậy về hình ảnh ông đồ trong khổ thơ 1,2 để cảm nhận được trong cái đông vui tấp nập của phố phường, trong cái niềm vui nho nhỏ của kẻ viết thuê cứ có điều gì đó phảng phất nỗi buồn, ngậm ngùi của nhà thơ. Điều đó nó nén chặt trong tứ thơ “ông đồ”, nó lắng trong âm điệu trầm buồn có ngay từ những câu thơ ngũ ngôn đầu tiên của bài thơ, lắng trong từng câu chữ Mỗi năm hoa đào nở / Lại thấy ông đồ già, trong hình ảnh dường như đối lập hoa đào nở, phố phường tấp nập, cuộc sống sinh sôi với hình ảnh ông đồ già nua, đơn lẻ… Hiểu như vậy để thấy được những đoạn sau chỉ là sự phát triển, lộ rõ tứ thơ đã phảng phất ở đoạn trên mà thôi. Toàn bộ bài thơ kết cấu trên một âm hưởng ngày một mở rộng, lan xa… 2 Khổ 3,4 Vẫn không gian của phố phường tấp nập, vẫn vào dịp tết đến xuân về, nhân vật, cảnh vật vẫn chừng ấy ông đồ, giấy, mực, phố phường. Nhưng phong tục treo câu đối đỏ ngày tết đã không còn được người ta chuộng nữa. Từ “nhưng” với điệp từ “mỗi” đánh dấu sự thay đổi trong bước đi chầm chậm của thời gian. Người tri âm hôm qua nay đã là khách qua đường. Niềm vui nho nhỏ của ông là được thảo những nét “phượng múa rồng bay” đem lại chút vui cho mọi người khi tết đến xuân về nay 9 cũng không còn. Nỗi buồn của lòng người như lan tỏa đến những vật vô tri “Giấy đỏ buồn không thắm/ Mực đọng trong nghiên sầu”. Giấy cũng thấm buồn mực cũng nhuộm sầu. Biện pháp nhân hóa sử dụng thật đắc địa, nỗi đau của con người làm tái tê cả cảnh vật. “Ông đồ vẫn ngồi đấy / Qua đường không ai hay”. Ông cô đơn, trơ trọi, lạc lõng và hoàn toàn bị quên lãng giữa phố phường tấp nập. Xót xa thay, ông đồ bị người đời lãng quên trong lúc còn hiện hữu. Phong tục đẹp của ngày tết cổ truyền còn đâu nữa. Chút an ủi,vớt vát cuối cùng của nho học lúc mạt vận cũng tiêu tan. Nho học đã hoàn toàn mất chỗ đứng trong đời sống tinh thần của con người. Cần phân tích kĩ hai câu thơ tả cảnh ngụ tình tuyệt bút để thấy rõ nỗi niềm thương cảm sâu sắc của nhà thơ đối với ông đồ “Lá vàng rơi trên giấy / Ngoài trời mưa bụi bay”. Lá vàng đã trút hết trên trang giấy nhạt phai như chấm hết sự sinh sôi. Mưa bụi bay trong không gian tê tái nhạt hòa như khóc thương, tiễn biệt một số phận con người, một thời đại đã dần khép vào dĩ vãng. Hiện thực trong thơ là hiện thực của nỗi lòng. Chỉ là mưa bụi bay rất nhẹ vậy sao mà ảm đạm, lạnh lẽo tới buốt giá. Nó diễn tả lòng người trĩu nặng sầu đau, dường như nỗi đau của người trong cuộc lẫn người chứng kiến hòa chung trong một điệu, tràn ngập cả không gian. Chính nỗi lòng thương cảm sâu sắc của nhà thơ về số phận của ông đồ đã cất lên những tiếng thơ nức nở nghẹn ngào. Ông đồ quả thực là “di tích của một thời tàn”. Như vậy, ở khổ 1,2 trong tương quan với khổ 3,4 không thể là thời đắc ý, huy hoàng của ông đồ. Có chăng hình ảnh ông đồ gắn với phong tục đẹp của văn hóa truyền thống là một sự níu kéo cuối cùng của nho học đã bước vào thời tàn. Có chăng chỉ là cái tình của người đời đối với ông đồ vào thời mạt vận mà thôi. Định hướng như vậy để thấy được lòng thương cảm của Vũ Đình Liên đối với thân phận ông đồ thấm đẫm từ đầu đến cuối bài thơ, nó càng thấm sâu với bao xót xa, day dứt ám ảnh. Khổ 3,4 chỉ để làm rõ hơn những điều đã hé lộ ở 2 khổ thơ đầu. Và cũng để thấy rõ hơn cho tứ thơ “ông đồ” thương cảm cho một kiếp người cũng là bộc lộ nỗi niềm hoài cổ, nhớ tiếc cho một thời đã qua, gắn với những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp. 3 Khổ thơ cuối 10 Với kết cấu đầu cuối tương ứng mở đầu “Mỗi năm hoa đào nở / Lại thấy ông đồ già” và kết thúc “Năm nay đào lại nở / Không thấy ông đồ xưa” đã làm rõ cái mâu thuẫn giữa cái vô hạn của thời gian, cứ luân chuyển theo chu kì bất biến và cái hữu hạn của đời người, một đi không trở lại để bật ra cái bi kịch của một kiếp người trong nỗi thương cảm da diết của nhà thơ. Đồng thời đó cũng là cái tứ cảnh cũ người đâu thuờng gặp trong thơ xưa đầy gợi cảm năm nay đào lại nở, tết đến, mùa xuân lại về, nhưng ông đồ già đã thành “ông đồ xưa”, thành “người muôn năm cũ”. Cách dùng từ đầy dụng ý và giàu sức gợi đã xoáy vào lòng người bao nỗi xót thương trắc ẩn về hình bóng ông đồ già đã khuất nẻo dương gian, xót thương cho bao danh nho vang bóng một thời nay đã hoàn toàn vắng bóng. Hai câu thơ cuối là lời tự vấn của nhà thơ “Những người muôn năm cũ / Hồn ở đâu bây giờ?”. Nhà thơ tự hỏi mình, hỏi mọi người, hỏi vọng về quá khứ với bao nỗi xót xa, thương tiếc ngậm ngùi…Ông đồ vắng bóng không chỉ là khép lại thân phận của một kiếp người mà là sự biến mất vĩnh viễn của của một lớp người, sự suy vong cáo chung của một thời đại, sự mai một, phôi pha của những nét đẹp văn hóa truyền thống. Nỗi buồn về thân thế đã trở thành nỗi buồn cảm hoài về thời thế. “Những người muôn năm cũ” không còn nữa nhưng linh hồn họ, những giá trị mà họ đã đóng góp vào cuộc sống tinh thần của quê hương, đất nước này, giờ ở đâu? “Câu thơ dùng chữ “hồn” – một cách nói rất Việt Nam đã chạm đến những rung cảm sâu xa nhất trong tâm linh giống nòi, nó khắc khoải mãi, da diết mãi”. Hơn nữa, bài thơ là tiếng lòng của một trí thức Tây học trẻ tuổi nhìn về quá khứ, khi Nho học đã đi đến hồi kết. Đó là nỗi cảm thương, ngậm ngùi, tiếc nuối thoáng chút ân hận của lớp người đương đại khi lòng mình không dủ thương đủ quí để níu giữ những nét đẹp của văn hóa truyền thống, dẫu nhà thơ ý thức sâu sắc qui luật vận động của cuộc đời và xã hội. Bởi thế, trong nỗi niềm hoài cổ của Vũ Đình Liên còn là cái nhìn nhân hậu với quá khứ và với những gì đang trở thành quá khứ. Tiếng lòng ấy dễ dàng tìm được tiếng nói tri âm. 11 hành soạn giáo án Từ định hướng và lưu ý trên, kết hợp với thực tiễn giảng dạy, tôi xin đề xuất giáo án bài dạy như sau Tiết 65,66 ÔNG ĐỒ Vũ Đình Liên A. Mục tiêu cần đạt Giúp học sinh 1. -Cảm nhận được hình ảnh tàn tạ của ông đồ - một con người đã và đang trở nên lạc lõng và bị gạt ra ngoài lề cuộc sống lúc ấy – được thể hiện đầy ám ảnh trong toàn bộ bài thơ - Qua đó thấy được niềm cảm thương chân thành và nỗi nhớ tiếc ngậm ngùi của tác giả đối với cảnh cũ người xưa gắn liền với một nét đẹp văn hóa cổ truyền. - Hiểu và đánh giá được giá trị nghệ thuật đặc sắc của bài thơ 2. Giáo dục sự trân trọng đối với những nét đẹp văn hóa truyền thống 3. Rèn luyện kĩ măng phân tích, cảm thụ thơ ngũ ngôn. B. Tiến trình thực hiện các bước lên lớp 1. Bài cũ Cảm nhận về tâm sự của nhà thơ Tản Đà trong bài thơ “Muốn làm thằng Cuội” 2. Bài mới Theo dõi chú thích * và cho biết I. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm những nét chính về tác giả? 1. Tác giả - Vũ Đình Liên 1913 - 1996 - Tham gia phong trào thơ mới ngay từ những ngày đầu - Cảm hứng thơ Vũ Đình Liên tập trung vào hai nội dung chính Lòng thương người và tình hoài cổ - Ngoài sáng tác thơ ông còn nghiên cứu, dịch thuật, giảng dạy văn học. Năm 1990 ông được 12 phong là nhà giáo nhân dân. 2. Tác phẩm Những hiểu biết của em về bài - Bài thơ Ông đồ là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ “Ông đồ”? thơ giàu thương cảm của Vũ Đình Liên. - Bài thơ được đánh giá là một kiệt tác Hoài Thanh-> Vũ Đình Liên có vị trí xứng đáng trong phong trào thơ mới. II. Baì thơ này nên đọc như thế nào? Đọc và tìm hiểu chung 1. Đọc Bài thơ nên đọc với giọng chậm rãi, trầm lắng để diễn tả nỗi lòng của nhà thơ. 2. Tìm hiểu chung Bài thơ viết theo thể thơ gì?Nêu thơ Ngũ ngôn phương thức biểu đạt của bài thơ? -> Rất quen thuộc rất phù hợp với việc diễn tả cảm xúc, tâm tư của nhà thơ. Ngôn ngữ cô đọng, nhiều ý nghĩa dư vang b. Phương thức biểu đạt Biểu cảm là chính xen tự sự, miêu tả Nhân vật trữ tình trong bài thơ? c. Nhân vật trữ tình - Chủ thể trữ tình tác giả - Đối tượng trữ tình Ông đồ Dựa vào sự giải thích của SGK - Ông đồ là người Nho học nhưng không đỗ đạt, em hiểu như thế nào về hình ảnh sống thanh bần bằng nghề dạy học. Những năm 30 ông đồ trong đời sống văn hóa xã thì vị trí của các thầy đồ dạy chữ nho hầu như không hội của người Việt nam xưa? còn nữa. Và người ta chỉ thấy khi ông khi tết đến với cái câu đối phong tục treo câu đối đỏ một năm một lần. -> ông đồ trở thành một tứ thơ giàu sức nén của bài thơ. Qua hình tượng ông đồ tác giả khái quát được những bước thăng trầm của thời đại và số phận của nền Nho học. 13 Tìm hiểu mạch cảm xúc? Mạch d. Mạch cảm xúc Cảm nhận của tác giả về hình ảnh cảm ấy được thể hiện như thế nào ông đồ qua thời gian trong bài thơ? - Triển khai qua 3 tiết đoạn - Khổ thơ 1,2 - Khổ thơ 3,4 - Khổ thơ cuối III. Tìm hiểu chi tiết + Khổ 1,2 Hình ảnh ông đồ được tác giả - Khung cảnh - Hoa đào nở cảm nhận trong khung cảnh như - Phố đông người qua thế nào? Thể hiện qua hình ảnh từ -> Gợi khung cảnh tết đến xuân về. hoa đào khoe ngữ nào? Nhận xét về khung cảnh sắc thắm, phố phường tấp nập đông vui… đó? -> Cảnh đẹp tràn đầy sức sống, mọi vật dường như tươi trẻ lại. Trong khung cảnh đó ông đồ hiện - Ông đồ - Lại thấy lên qua những từ ngữ nào? - mực tàu, giấy đỏ Nhận xét cách dùng từ? Qua đó Lại phó từ chỉ sự tiếp diễn, lặp đi lặp lại. gợi lên điều gì? - Tác dụng - hình ảnh ông đồ xuất hiện nơi nơi phố phường vào ngày tết đã trở nên quen thuộc - Gợi một phong tục đẹp, một thú vui tao nhã vào ngày tết cổ truyền với bánh chưng xanh câu đối đỏ. Hãy nhớ lại phần tìm hiểu chung -Vị thế ông đồ không còn như xưa Ông đồ đã phải đã cho ta biết ông đồ là ai. Vậy rời bỏ thư phòng trang nghiêm để lận đận ra hè phố hình ảnh ông đồ trong bài thơ bán chữ. xuất hiện trong vị thế nào?Có còn là thầy đồ dạy chữ? Hình ảnh ông đồ viết thuê giúp em nhận ra điều -> Nền nho học đã bước vào thời tàn. gì? Thế nhưng, thái độ của mọi người - Thái độ mọi người - Bao nhiêu người thuê 14 đối với nghề viết chữ của ông lúc - Tấm tắc ngợi khen ấy ra sao? Nhận xét cách dùng từ? - Đại từ phiếm chỉ, chỉ số nhiều Qua đó em hiểu gì về thái độ của ->Khách tìm đến mua chữ nhiều không sao kể xiết mọi người? luôn miệng tấm tắc ngợi ca tài viết chữ của ông đồ Cảm nhận của tác giả về nét chữ - Nét chữ như phượng múa rồng bay -> sử dụng so của ông đồ lúc ấy ra sao? sánh + thành ngữ -> Gợi nên nét chữ đẹp, sống động như có linh hồn. Hồn của người vết chữ như truyền sang từng con chữ. Người viết thuê trong cái thú chơi tao nhã như một nhu cầu giao cảm với con người, đất trời mỗi độ xuân về. Từ đó, hình dung tâm trạng của - Ông đồ vui khi còn được thể hiện vốn chữ tài hoa ông đồ lúc này? của mình. Dường như lúc này ông đã tạm quên đi nỗi buồn thân phận để kiếm tìm một chút tri âm, một niềm an ủi cuối cùng cho nền nho học… Trong cảnh kẻ thuê người viết - Dẫu nền Nho học đã bước vào thời tàn, song mỗi độ xuân về ấy giúp em cảm vẫn còn hiện diện trong một phong tục đẹp. Chữ nho nhận rõ nét điều gì? còn là thú vui tao nhã và vẫn còn tồn tại trong một góc của đời sống tinh thần của con người. Hình dung về tâm trạng nhà thơ + Tâm trạng của nhà thơ lúc ấy? - Yêu mến trân trọng, tự hào đối với ông đồ và Qua cách miêu tả hình ảnh ông đồ phong tục đẹp của dân tộc trong khổ 1 và 2 em còn cảm nhận được gì về nỗi lòng của nhà thơ đối với ông đồ?Gợi hai khổ thơ cất lên với giọng điệu như thế nào? Tâm trạng ấy còn chất chứa ở đâu nữa? - Giọng thơ cất lên trầm buồn ngay từ câu thơ ngũ ngôn đầu tiên của bài thơ. - Từ ngữ Lại thấy Ông đồ già - Hình ảnh thơ Hoa đào nở, phố phường tấp nập > cảm nhận được trong cái đông vui tấp nập của phố phường, trong cái niềm vui nho nhỏ của kẻ viết thuê cứ có điều gì đó phảng phất nỗi buồn, ngậm 15 Vậy ở đây t/giả sử dụng cách biểu ngùi của nhà thơ. cảm gì? -> Cách biểu cảm gián tiếp qua miêu tả, tự sự +. Khổ 3,4 Cùng với sự tuần hoàn của thời + Sự đổi thay của số phận ông đồ qua thái độ của gian nhà thơ đã nhận ra sự thay mọi người đổi trong số phận ông đồ như thế nào? Thể hiện qua những từ ngữ, biện pháp nghệ thuật nào? Hãy phân tích? -Từ “nhưng” mở đầu khổ 3 chỉ ý đối lập, bước ngoặt của thời gian, đánh dấu sự đổi thay. - Điệp từ mỗi diễn tả bước đi chầm chậm của của thời gian, nhịp độ khách thưa vắng dần. Người tri âm hôm qua nay đã là khách qua đường. Trước sự đổi thay của số phận + Thái độ của tác giả Thốt lên “Người thuê viết nay ông đồ, tác giả đã bày tỏ thái độ đâu”?-> câu hỏi tu từ qua câu thơ nào? Nhận xét về -> Tâm trạng bàng hoàng thoảng thốt trước cảnh nghệ thuật? Qua đó em hiểu thái vắng người vắng khách độ gì? + Nỗi lòng của ông đồ “ Giấy đỏ buồn / nghiên sầu Nhà thơ đã diễn tả nỗi lòng của -> Hình ảnh nhân hóa ông đồ qua hình ảnh nào? Phân -> Làm cho cảnh vật vô tri trở nên có linh hồn, trĩu tích giá trị biểu đạt? nặng sầu đau. -> Trang giấy có phải thấm nỗi buồn đau khôn tả của lòng người mà không còn thắm đỏ. Mực tàu trong nghiên bao ngày không được dùng đến nên đặc quánh lại trong nỗi sầu đau. -> Nỗi đau của lòng người làm tái tê cả cảnh vật. Trong tình cảnh đó hình ảnh ông + Ông đồ vẫn ngồi đấy/ không ai hay… đồ hiện lên như thế nào? - Phó từ “vẫn” -> ông đồ vẫn ngồi đấy giữa phố phường tấp nập, trong khung cảnh tết đến xuân về kiên nhẫn đợi chờ khách qua đường mà cô đơn,trơ trọi, lạc lõng giữa dòng người xa lạ. Từ hình ảnh đó của ông đồ em -> Ông đồ bị lãng quên ngay khi còn hiện hữu. cảm nhận được điều gì xót xa? Phong tục đẹp của ngày tết cổ truyền còn đâu nữa. Chút an ủi,vớt vát cuối cùng của nho học lúc mạt 16 vận cũng tiêu tan. Nho học đã hoàn toàn mất chỗ đứng trong đời sống tinh thần của người Việt. + “Lá vàng rơi trên giấy/ ngoài trời mưa bụi bay” Hai câu thơ cuối của khổ 3 đã -> Hai câu thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc diễn tả sâu sắc tình cảnh của ông => Lá vàng đã trút hết trên trang giấy nhạt phai như đồ cũng như nỗi lòng của nhà thơ. chấm hết sự sinh sôi. Mưa bụi bay trong không gian Em hãy phân tích làm rõ cái hay tê tái nhạt nhòa như khóc thương, tiễn biệt một số của hai câu thơ đó? phận con người, một thời đại đã dần khép vào dĩ vãng. Dường như nỗi đau của người trong cuộc lẫn người chứng kiến hòa chung trong một điệu, tràn ngập cả không gian. =>Chính nỗi lòng thương cảm sâu sắc của nhà thơ về số phận của ông đồ đã cất lên những tiếng thơ trĩu nặng sầu đau. Ông đồ quả thực là “di tích của một thời tàn”. Câu hỏi thảo luận nhóm để củng -> Củng cố qua thảo luận nhóm Toàn bộ bài thơ cố kiến thức vừa học qua 4 khổ kết cấu trên một âm hưởng ngày một mở rộng, lan thơ Theo em từ sự thay đổi của xa… lòng thương cảm của Vũ Đình Liên đối với số phận ông đồ ở khổ 3,4 có thể thân phận ông đồ thấm đẫm từ đầu đến cuối bài thơ, khẳng định có sự thay đổi trong nó càng lúc càng thấm sâu với bao xót xa, day dứt tình cảm của tác giả không? Vì ám ảnh. sao? +. Khổ thơ cuối -Nghệ thuật đối lập -Mở đầu Mỗi năm hoa đào So sánh hai câu thơ mở đầu bài nở /Lại thấy ông đồ già thơ với 2 câu thơ của khổ cuối để - Kết thúc Năm nay đào lại nở/ Không phát hiện nét nghệ thuật đặc sắc thấy ông đồ xưa gì? Tác dụng? -> kết cấu đầu cuối tương ứng -> thời gian luân chuyển theo chu kì bất biến đặt bên cạnh cái hữu hạn của đời người, một đi không trở lại - Tác dụng để bật ra cái bi kịch của một kiếp người 17 trong nỗi thương cảm da diết của nhà thơ. - Từ lại diễn tả vòng tuần hoàn của thời gian đồng Cách dùng từ lại trong câu thơ thời đó cũng là cái tứ “cảnh cũ người đâu” thuờng còn gợi ra điều gì? gặp trong thơ xưa đầy gợi cảm năm nay đào lại nở, tết đến, mùa xuân lại về, nhưng ông đồ già đã thành “ông đồ xưa” -> Sự ra đi không tiễn biệt của một kiếp người, một nền văn hóa. + “Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây Trong sự mất mát đó tác giả thốt giờ”? lên như thế nào? Nhận xét cách - Câu hỏi tu từ Hỏi mình, hỏi người, hỏi cả thời diễn đạt? Tác giả hỏi ai? Hỏi về đại, hỏi vọng về quá khứ điều gì? - Hồn của người muôn năm cũ - Hồn của ông đồ -Hồn của lớp người đã đóng góp vào cuộc sống tinh thần của quê hương, đất nước này - Hồn của một nét đẹp văn hóa truyền thống - Câu thơ dùng chữ “hồn” – một cách nói rất Việt Nam đã chạm đến những rung cảm sâu xa nhất trong tâm linh giống nòi, nó khắc khoải mãi, da diết mãi. =>Bộc lộ bao nỗi xót xa, thương tiếc, ngậm ngùi của nhà thơ trước sự ra đi lặng lẽ của ông đồ, của các Qua đó em hiểu được tâm trạng gì bậc tiền nhân cùng với sự đổi thay giá trị của những của tác giả? nét đẹp văn hóa truyền thống. -> Nỗi buồn về thân thế đã trở thành nỗi buồn cảm hoài về thời thế. =>GV Hơn nữa, bài thơ là tiếng lòng của một trí thức Tây học trẻ tuổi nhìn về quá khứ, khi Nho học đã đi đến hồi kết. Đó là nỗi cảm thương, ngậm ngùi, 18 tiếc nuối thoáng chút ân hận của lớp người đương đại khi lòng mình không dủ thương đủ quí để níu giữ những nét đẹp của văn hóa truyền thống, dẫu nhà thơ ý thức sâu sắc qui luật vận động của cuộc đời và xã hội. Bởi thế, trong nỗi niềm hoài cổ của Vũ Đình Liên còn là cái nhìn nhân hậu với quá khứ và với những gì đang trở thành quá khứ. IV. Tổng kết thuật Đánh giá chung về giá trị nghệ - Thể thơ ngũ ngôn hàm súc cô đọng thuật của bài thơ? - Giọng điệu chủ đạo của bài thơ là trầm lắng ngậm ngùi, phù hợp với việc diễn tả tâm tư, cảm xúc của nhà thơ - Kết cấu bài thơ giản dị mà chặt chẽ theo trình tự thời gian bằng cái nhìn hướng ngoại từ tâm thức nhà thơ; kết cấu đầu cuối tương ứng với những cảnh tượng đối lập để thể hiện đầy ám ảnh sự thất thế của ông đồ, nỗi buồn thương của tác giả. - Ngôn ngữ, hình ảnh thơ rất trong sáng, bình dị nhưng tinh tế giàu sức gợi -> có sức truyền cảm lớn. 2. Nội dung Bài thơ thể hiện niềm cảm thương chân thành trước Qua đó em cảm nhận gì về nội tình cảnh đáng thương của ông đồ, trước lớp người dung gì của bài thơ? đang tàn tạ cùng với nỗi niềm hoài cổ bâng khuâng tiếc nhớ về một nét đẹp của văn hóa truyền thống nay đã mai một phôi pha, về một nền văn hóa đã từng vang bóng một thời. V. Luyện tập Cảm nhận về tấm lòng của nhà thơ Vũ Đình Liên qua bài thơ C. Củng cố, dặn dò Tìm đọc truyện ngắn “Ông đồ nho” của Thạch Lam xuất hiện cùng thời với bài thơ “Ông đồ” để thấy được sự cộng hưởng cảm xúc và từ đó hiểu hơn về nỗi lòng tâm trạng của nhà thơ Vũ Đình Liên. 19 sát a. Đề khảo sát Cảm nhận về hình ảnh ông đồ trong hai khổ thơ đầu của bài thơ “Ông đồ” b. Kết quả SAU ĐÂY LÀ MỘT SỐ KẾT QUẢ GIẢNG DẠY THEO ĐỊNH HƯỚNG SÁCH GIÁO VIÊN VÀ ĐỊNH HƯỚNG MỚI NĂM HỌC LỚP SĨ SỐ ĐIỂM 9-10 ĐIỂM 7-8 ĐIỂM 5 -6 ĐIỂM 20 Bài văn mẫu lớp 8Văn mẫu lớp 8 Thuyết minh về tác giả Vũ Đình Liên và tác phẩm Ông đồ được VnDoc sưu tầm và giới thiệu nhằm giúp các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra sắp tới đây của mình. Tài liệu bao gồm dàn ý và các bài văn mẫu hay cho các em tham khảo, có thêm nhiều ý tưởng xây dựng bài viết hoàn ý thuyết minh về tác giả Vũ Đình Liên và tác phẩm Ông đồI/ Mở bàiGiới thiệu đôi nét về tác giả Vũ Đình Liên và bài thơ Ông đồII/ Thân bài- Nguồn gốc ra đời của bài thơ+ Vào thời kì suy tàn của văn hóa cổ xưa của người Việt+ Tác giả tiếc nuối, hoài niệm về quá khứ- Hình ảnh ông đồ qua hai thời kì+ Thời kì "đắc ý"* Tết đến, hoa đào nở, phố xá tưng bừng, người xe nườm nượp qua lại - một khung cảnh đông vui, nhộn nhịp; một bức tranh giàu màu sắc, đường nét tươi tắn, rực rỡ.* Nổi bật giữa trung tâm bức tranh ấy là hình ảnh ông đồ.* Ông đang là trung tâm chú ý, là đối tượng ngưỡng mộ, tôn vinh của mọi người “Bao nhiêu người thuê viết. Tấm tắc ngợi khen tài".=> Hình ảnh ông hòa cùng cái đông vui, náo nức của phố phường ngày giáp Tết. Ông chính là một trong những nơi gặp gỡ, hội tụ của văn hoá - tâm linh người Việt một thời.+ Hình ảnh ông đồ thời kì bị quên lãng* Cũng như bức tranh trước, ở đây, ông đồ vẫn là hình ảnh trung tâm của bức tranh* Nhưng xung quanh ông, mọi sự đã thay đổi.* Ông đồ "vẫn ngồi đấy", giữa phố xá đông đúc người qua lại nhưng lẻ loi, lạc lõng, không ai biết, "không ai hay".=> Nỗi buồn tủi thấm đẫm lên cả những vật vô tri vô giác, xót xa cho sự tàn tạ, suy sụp hoàn toàn của nền Nho học- Lời tự vấn+ Hoa đào vẫn nở, Tết vẫn đến, quy luật thiên nhiên vẫn tuần hoàn, nhưng người thì không thấy nữa "Không thấy ông đồ xưa." Tứ thơ cảnh cũ còn đó, người xưa ở đâu và hình ảnh "người muôn năm cũ" gợi lên trong lòng người đọc niềm cảm thương, tiếc nuối vô hạn.+ "Người muôn năm cũ", trước tiên là các thế hệ nhà nho và sau đó còn là "bao nhiêu người thuê viết" thời đó. Vì vậy, "hồn" ở đây vừa là hồn của các nhà nho, vừa là linh hồn của nét sinh hoạt văn hoá truyền thống tốt đẹp đã từng gắn bó thân thiết với đời sống của con người Việt Nam hàng trăm nghìn năm.+ Dấu chấm hỏi đặt ở cuối bài thơ như rơi vào im lặng mênh mông nhưng từ đó dội lên bao nỗi niềm. Đó là nỗi day dứt, tiếc nhớ, thương xót ngậm ngùi của tác giả và cũng là của cả một thế hệ các nhà thơ mới. Đó còn là nỗi mong ước tìm lại, gặp lại vẻ đẹp của một thời đã Nghệ thuật đặc sắc của bài thơ+ Thể thơ ngũ ngôn vừa phù hợp với lối kể chuyện, vừa thích hợp để diễn tả tâm tình.+ Kết cấu đầu cuối tương ứng chặt chẽ của bài thơ đã làm nổi bật chủ đề tác phẩm quá trình tàn tạ, suy sụp của nền nho học.+ Ngôn ngữ, hình ảnh trong sáng, bình dị nhưng hàm súc, đầy ám ảnh, giàu sức Kết bài Cảm nghĩ về bài thơ ông đồThuyết minh về tác giả Vũ Đình Liên và tác phẩm Ông đồ mẫu 1Phong trào Thơ mới ra đời đã thu hút sự quan tâm và chú ý của nhiều thi nhân. Mỗi người đến với văn đàn đã góp một tiếng nói riêng để làm nên bức tranh thi ca đầy màu sắc cho phong trào văn học lúc bấy giờ. Vũ Đình Liên là một trong những nhà thơ lớp đầu tiên của phong trào Thơ mới. Ông là nhà thơ sinh năm 1913 và mất năm 1996, quê gốc ở Hải Dương. Dù là nhà thơ của phong trào thơ Mới, có nhiều cách tân trong sáng tác nhưng ông là nhà thơ mang nặng lòng thương người và niềm hoài cổ. Những bài thơ hiếm hoi được biết đến của ông đều mang nặng nỗi niềm hoài cổ, về luỹ tre xưa, về thành quách cũ và "những người muôn năm cũ". Ngoài sáng tác, Vũ Đình Liên còn nghiên cứu, dịch thuật và giảng dạy văn sáng tác không nhiều nhưng với bài thơ Ông đồ, tác giả đã có vị trí xứng đáng trong phong trào Thơ mới. Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh những năm đầu thế kỉ XX, nền Hán học và chữ nho ngày càng mất vị thế quan trọng trong đời sống văn hóa Việt Nam. Chế độ khoa cử phong kiến bị bãi bố và các nhà nho, từ chỗ là nhân vật trung tâm của đời sống văn hoá dân tộc, được xã hội tôn vinh, bỗng trở nên lạc bước trong thời đại mới, bị cuộc đời bỏ quên và cuối cùng là vắng bóng. Bài thơ đã thể hiện sâu sắc niềm cảm thương chân thành trước một lớp người đang tàn tạ và nỗi tiếc nhớ cảnh cũ người xưa của nhà thơ. Ấn tượng với bài thơ còn là những tinh tế trong việc chắt lọc, khéo léo sử dụng ngôn từ và hình ảnh của tác giả, đã góp phần gợi cảm xúc và tâm tư trong người đọc. Bài thơ là tiếng lòng của một tri thức Tây học trẻ tuổi nhìn về quá khứ khi Nho học đi đến hồi kết . Đó cũng là cái nhìn nhân hậu với quá khứ và với những giá trị truyền thống của dân tộc dần bị xao lãng. Vì thế mà tiếng lòng ấy đã tìm được tiếng nói tri âm trong lòng khán giả như hai nhà nghiên cứu và phê bình Hoài Thanh, Hoài Chân đã đánh giá đây là “bài thơ kiệt tác”.Thuyết minh về tác giả Vũ Đình Liên và tác phẩm Ông đồ mẫu 2Nền văn học Việt Nam đã ghi danh nhiều nhà văn, nhà thơ tiêu biểu. Trong đó chúng ta phải kể đến tác giả Vũ Đình Liên và bài thơ Ông đồ. Bài thơ là những hoài niệm khiến chúng ta phải suy Đình Liên 12 tháng 11 năm 1913- 18 tháng 1 năm 1996, là một nhà thơ, nhà giáo nhân dân Việt Nam. Vũ Đình Liên sinh tại Hà Nội, nhưng quê gốc ở thôn Châu Khê, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Ông đỗ tú tài năm 1932. Ông học thêm trường Luật đỗ bằng cử nhân, về sau vào làm công chức ở Nha Thương chính còn gọi là sở Đoan Hà Nội. Sau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia giảng dạy nhiều năm và từng là chủ nhiệm khoa tiếng Pháp của Đại học Quốc gia Hà Nội. Ngoài thơ ông còn hoạt động trong lĩnh vực lý luận, phê bình văn học và dịch thuật. Ông là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam. Phong cách sáng tác của thơ ông mang nặng nỗi niềm xưa, nỗi niềm hoài cổ, hoài vọng. Ông đã có những tác phẩm tiêu biểu Lũy tre xanh, Mùa xuân cộng sản, Hạnh phúc… Bài thơ Ông đồ là một bài thơ tiêu biểu và thành công nhất trong sự nghiệp sáng tác của Vũ Đình thơ được sáng tác trong một hoàn cảnh đặc biệt Từ đầu thế kỉ XX, nền văn Hán học và chữ Nho ngày càng suy vì trong đời sống văn hóa Việt Nam, khi mà Tây học du nhập vào Việt Nam, có lẽ vì đó mà hình ảnh những ông đồ đã bị xã hội bỏ quên và dần vắng bóng. Vũ Đình Liên đã viết bài thơ Ông đồ thể hiện niềm ngậm ngùi, day dứt về cảnh cũ, người xưa. Chúng ta có thể chia bài thơ thành ba phần chính để tiện tìm hiểu nội dung Phần một bao gồm hai khổ thơ đầu, đó là hình ảnh ông đồ thời Nho học còn thịnh hành, thịnh thế. Phần hai gồm hai khổ tiếp theo miêu tả hình ảnh ông đồ khi Nho học lụi tàn. Phần còn lại là tâm tư thầm kín, niềm tiếc thương tác giả gửi gắm. Tác phẩm khắc họa thành công hình cảnh đáng thương của ông đồ thời vắng bóng, đồng thời gửi gắm niềm thương cảm chân thành của nhà thơ trước một lớp người dần đi vào quá khứ, khơi gợi được niềm xúc động tư vấn của nhiều độc giả. Bài thơ được Vũ Đình Liên sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật nổi bật. Đầu tiên phải kể đến là việc bài thơ được viết theo thể thơ ngụ ngôn gồm nhiều khổ, kết cấu đối lập đầu cuối tương ứng, chặt chẽ. Ngôn từ trong sáng bình dị, truyền cảm. Với những nét đặc sắc này, bài thơ xứng đáng được nhiều người biết đến và gợi nhiều suy ngẫm trong lòng bạn năm tháng qua đi nhưng bài thơ vẫn giữ nguyên vẹn vẻ đẹp ban đầu của nó và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc khiến cho bạn đọc phải suy ngẫm về những nét đẹp văn hóa của một thời đã minh về tác giả Vũ Đình Liên và tác phẩm Ông đồ mẫu 3Vũ Đình Liên 1913 – 1996 thường được gọi là nhà thơ của "Ông đồ", một trong những bài thơ để lại nhiều âm vang nhất của phong trào Thơ Mới. Nếu phải kể tên 10 nhà thơ tiêu biểu nhất của trào lưu thơ ca này thì có thể chưa có tên ông. Nhưng nói đến 10 bài Thơ Mới tiêu biểu nhất thì không thể thiếu "Ông đồ".Bài thơ được đánh giá là "một bài thơ tuyệt tác" và được nhiều nhà nghiên cứu khai thác từ nhiều góc độ nhịp thơ ngũ ngôn, tính bi kịch, triết lý về thời gian, tình thương người, nỗi buồn hoài cổ, cảm hứng bi ca… Bài thơ đã được dịch sang tiếng Pháp và xung quanh nó có biết bao là đối bạn văn gọi Vũ Đình Liên là Ông đồ. Ông cũng tự nhận mình là "Ông đồ hiện đại" lettre moderne. Theo Hoài Thanh, "Ông đồ" là sự kết hợp của hai nguồn cảm hứng tình thương người và lòng hoài cổ và có thể nó còn là hợp lưu của nguồn cảm hứng thứ ba, đó là nghề dạy học. Vũ Đình Liên là một nhà giáo lâu năm. Bên cạnh việc làm thơ, ông còn viết nhiều sách giáo khoa. Cùng với một số người bạn cũng là nhà giáo, các ông thành lập Nhóm Lê Quý Đôn viết lịch sử văn học từ những năm 60 của thế kỷ trước và dịch các tác phẩm văn học Pháp. Hơn nửa thế kỷ dạy học, năm 1990 ông được nhận danh hiệu Nhà giáo Nhân Hà Nội có ba địa chỉ gắn bó sâu sắc với Vũ Đình Liên. Đó là Chùa Bộc, ngôi nhà 156B Bà Triệu và 11 phố Hàng Bông. Có thời gian ông sống từ bi, ẩn dật trong Chùa Bộc. Và có một ngày thu vàng nắng của năm 1986, ngôi chùa tĩnh lặng bỗng xôn xao náo nhiệt vì sự đông vui ồn ã khác hẳn ngày thường, khiến những người xung quanh không khỏi tò mò, ngạc nhiên. Đó là ngày bè bạn và các học trò của nhà thơ Vũ Đình Liên tổ chức kỉ niệm 50 năm ngày ra đời bài thơ "Ông đồ" dưới mái Chùa gian sống ở đây đã khiến ông suy ngẫm rất nhiều về đạo Phật. Vốn là người hướng nội, gần gũi với thập loại chúng sinh, hồn thơ ông càng thấm đẫm tinh thần bác ái của nhà chùa. Ông viết về Phật Bà "Nghìn mắt không nhìn hết khổ đau/ Nghìn tay nâng chẳng nhẹ u sầu"; về triết lý đời sống theo cảm nhận của riêng ông Đời người là đau khổ/ tình người là xót thương. Ngôi nhà ở Bà Triệu là nơi ông sống những năm cuối đời. Trên hè phố Bà Triệu, nhiều người thường gặp ông nhẩn nha đi bộ, gương mặt phúc hậu, mái tóc bạc, vầng trán mênh mông, bên hông lúc nào cũng đè nặng chiếc cặp da đen sờn cũ, đầy ắp sách vở, tư liệu, bản nháp thơ và chắc chắn trong đó không thể thiếu toàn tập thơ Baudelaire bằng tiếng Pháp và bản dịch của ông. Vũ Đình Liên rất mê Baudelaire. Ông đã dịch "Những bông hoa ác" và hàng trăm bài thơ của tác giả này. Ông say mê đến mức mọi người gọi ông là Bô Đơ… Liên. Và có nhà thơ Pháp đã gọi ông là "Baudelaire Vietnamien".Ngôi nhà 11 phố Hàng Bông thường được gọi là Gác Lưu xá, là một nơi chốn đầy ý nghĩa trong đời sống tinh thần của Vũ Đình Liên. Đây là nhà riêng của nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Văn Lưu, một người nổi tiếng trong giới văn nghệ sĩ Thủ đô. Ông đã lưu giữ được nhiều tấm ảnh, bức tranh và tư liệu văn học nghệ thuật quý hiếm. Ngôi nhà này là nơi gặp gỡ và đàm đạo văn chương của ba nghệ sĩ nhà thơ Vũ Đình Liên, họa sĩ Bùi Xuân Phái và nhà nhiếp ảnh Trần Văn Lưu. Do đó căn gác này còn những tên gọi khác nữa là "Lầu Tình bạn" hay "Bảo tàng Lưu – Liên – Phái". Tại đây có treo đôi câu đối Nhân loại xây Đền Văn hoá mới – Hòa bình dựng Tháp Đại đồng xưa, do Vũ Đình Liên làm và Bùi Xuân Phái viết. Tại ngôi Đền Văn hóa này, vào dịp kỷ niệm ngày sinh, ngày giỗ của Nguyễn Du, Lê Quý Đôn, Nguyễn Đình Chiểu, Hugo, Baudelaire… trầm hương trên bàn thờ lại thành kính tỏa khói nghi ngút để tưởng nhớ những bậc tài danh của đất nước và nhân thời Vũ Đình Liên là một người trọng tình bạn và luôn xót thương những người bần hàn, khổ sở. Có những ngày Tết, ông gói một đùm bánh chưng rồi ra đi không ăn Tết ở nhà. Con cháu đi tìm thì thấy ông đang ngồi ăn cùng với vài người cơ nhỡ ở sân ga. Nhắc đến Vũ Đình Liên, người ta thường nhắc đến "Ông đồ" mà ít người biết tới một chùm thơ về người đàn bà điên khá độc đáo, liên quan đến thói quen của ông. Có thể nói chùm thơ này biểu hiện tập trung phong cách thơ Vũ Đình Liên sau 1945, thể hiện rõ nét sự ảnh hưởng sâu sắc thơ Baudelaire, từ nghệ thuật cấu tứ cho đến hình ảnh, ngôn từ, âm năm Bính Thìn 1977 nhà thơ lên Thái Nguyên ăn Tết với bà con, bạn bè. Khi tàu hoả đến ga Lưu Xá, cách Thái Nguyên khoảng 10 cây số, ông gặp một người đàn bà điên áo quần tả tơi, ngồi bệt dưới sàn tàu. Người điên và nhà thơ nhìn nhau xót thương, một mối tình câm lặng. Ngay đêm hôm đó ông làm bài thơ "Người đàn bà điên ga Lưu Xá" "Người đàn bà điên ga Lưu Xá/ Ngồi ngay trước mặt dưới chân tôi/ Ai vẽ được thiên tài hội họa/ Chân dung kia kinh tởm tuyệt vời/ Công chúa điên rồ và rách rưới/ Hình ảnh lạ lùng chửa có hai/ Cả tưởng tượng Đông Tây cộng lại/ Khôn dựng nên dù một phần mười/ Bao tải xơ ni lông nát vụn/ Sợi dây thừng buộc mũ rách bông/… Tôi ngồi ngắm mắt không hề mỏi/ Đống rác kia xưa đã là hoa… Ai dun dủi và ai sắp đặt/ Một nhà thơ với một người điên/ Tôi bắt gặp ba lần cặp mắt/ Nhẹ căm thù như muốn làm duyên"… Lúc này trong toa xe mọi người đã xuống hết, không còn ai nữa. Nhà thơ lấy trong túi xách ra một góc bánh chưng, một gói mứt sen nhỏ, hai tay nâng gói quà Tết trao cho người đàn bà điên "Người nhận quà đưa tay đón tay/ Chẳng rằng chẳng nói mặt như ngây/ Chia tay không một lời hò hẹn/ Hai mặt ảnh hình bốn mắt ghi/… Tôi đi tìm đến những người thân/ Bè bạn cháu con xa với gần/ Ngày Tết cổ truyền vui thiếu đủ/ Nhìn mặt người như ngắm hoa xuân/ Còn tôi biết cuộc đời đã trút/ Lên hoa kia sương tuyết nặng dày/ Đời độc ác lòng người bội bạc/ Làm hoa kia thành đống rác này/ Đời sẽ đổi lòng người sẽ đổi/ Sẽ trở về tình xót nghĩa thương/ Hãy trút hết áo quần hôi thối/ Cho thịt da lại tỏa hương thơm/ Người em Lưu Xá ở đâu đây/ Có thấy ấm lòng xuân nắng hây/ Một đóa hoa tàn nay nở lại/ Thắm hồng trong buổi mới xuân nay".Mười năm sau, 1987 cũng ở ga Lưu Xá, nhà thơ gặp lại người đàn bà đó, tuy vẫn còn hoang dại nhưng đã bớt phần rách rưới điên loạn. Dưới bóng trăng mờ, người đàn bà nắm tay nhà thơ và đưa tiễn ông đến hai ga sau. Ngay sau đó ông sáng tác bài thơ "Gặp lại người đàn bà điên" ghi lại cảm xúc của mình. Năm năm sau, 1992 người đàn bà đến tìm nhà thơ ở nhà riêng tại phố Bà Triệu. Bây giờ người điên ấy đã là một cô gái đẹp. Một mối tình huyền thoại. Và ông viết tiếp bài thơ "Người điên – Nàng tiên" "Đông Tây, Thi Họa tương phùng/ Cổ kim nghệ thuật tình thương thần kỳ…/ Thịt da trầm tỏa hương bay/ Như hồi đôi tám thơ ngây má hồng". Trong lần gặp gỡ đầu tiên, nhà thơ của tình thương đã nhìn thấy ở "cái xác thối tha ấy" một bông hoa tỏa hương, một mối tình xưa tinh khiết. Có lẽ đó là cảm hứng bắt nguồn từ nhiều bài thơ của Baudelaire mà ông đã dịch và ngấm vào trong máu thịt Hãy yêu họ, vì dưới những mảnh quần rách tã/ Những tấm áo mong manh vẫn là những tâm hồn". Thơ Baudelaire qua bản dịch của Vũ Đình Liên. Cũng như "Ông đồ", xung quanh bài thơ này lại có bao lời bình luận và đối thoại. Họa sĩ Bùi Xuân Phái đã minh họa người đàn bà điên trong một bức tranh kỳ dị và Trần Văn Lưu là người đã cất giữ bức tranh này."Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ". Đó là một câu hỏi đầy khắc khoải vang lên như tiếng nói từ ngàn xưa vọng về. "Ông đồ vẫn ngồi đấy/ Qua đường không ai hay". Nhưng có một người đã "hay" và may sao người đó lại là ông – nhà thơ Vũ Đình Liên, người đã xót xa, lặng lẽ, cảm thông để viết nên bài thơ sống mãi cùng năm tháng...........................Trên đây VnDoc đã tổng hợp các bài văn mẫu Thuyết minh về tác giả Vũ Đình Liên và tác phẩm Ông đồ cho các bạn tham khảo ý tưởng khi viết bài. Ngoài ra các bạn có thể xem thêm chuyên mục Soạn văn 8 mà VnDoc đã chuẩn bị để học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 8 và biết cách soạn bài lớp 8 các bài trong sách Văn tập 1 và tập 2. Đồng thời các dạng đề thi học kì 1 lớp 8, đề thi học kì 2 lớp 8 mới nhất cũng sẽ được chúng tôi cập nhật. Mời các em học sinh, các thầy cô cùng các bậc phụ huynh tham bài liên quan đến tác phẩmSoạn bài lớp 8 Ông ĐồSoạn Văn 8 bài Ông đồ Vũ Đình LiênPhân tích bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên Dàn ý và các bài văn mẫu hay lớp 8Văn mẫu lớp 8 Phân tích bài thơ Ông đồ của Vũ Đình LiênDàn ý Phân tích bài thơ Ông đồHướng dẫn Phân tích bài thơ Ông đồBài văn mẫu Phân tích bài thơ Ông đồ của Vũ Đình LiênPhân tích bài Ông đồ mẫu 1Phân tích bài Ông đồ mẫu 2Phân tích bài Ông đồ mẫu 3Phân tích bài Ông đồ mẫu 4Phân tích bài thơ Ông đồ mẫu 5Phân tích bài thơ Ông đồ mẫu 6Phân tích bài thơ Ông đồ mẫu 7Phân tích bài Ông đồ mẫu 8Phân tích bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên được VnDoc sưu tầm và giới thiệu bao gồm dàn ý và các bài văn mẫu hay lớp 8, cho các em tham khảo, có thêm nhiều ý tưởng xây dựng bài viết hoàn chỉnh. Mời các bạn tham khảo để học tốt Ngữ văn 8 thêmCảm nhận về bài thơ Ông đồ của Vũ Đình LiênCảm nhận khổ thơ 1 2 bài thơ Ông đồ của Vũ Đình LiênPhân tích khổ 3, 4 và 5 của bài thơ Ông đồDàn ý Phân tích bài thơ Ông đồ1. Mở bài- Khái quát về tác giả Vũ Đình Liên, một nhà thơ nổi bật với thiên hướng văn chương mang nặng nỗi tiếc thương và sự hoài niệm quá khứ- Giới thiệu bài thơ Ông đồ Một trong những bài thơ bình dị mà cảm động, nhìn vào đó, mỗi người sẽ có cảm giác “sám hối...với lớp người đang đi về cõi chết”- ông đồ2. Thân bàia. Hình ảnh ông đồ thời Nho học thịnh hành- Thời gian Mùa xuân với hoa đào nở- Hành động bày mực tàu, giấy đỏ - công cụ chủ yếu của các nhà nho- Địa điểm Bên phố đông người ⇒ sự đông vui, náo nhiệt lúc xuân về⇒ Hình ảnh gần gũi, quen thuộc trong mỗi dịp tết đến xuân về thưởu xưa- “Bao nhiêu người thuê viết....khen tài” Sự thịnh thế của Hán học, các nhà Nho khẳng định vị trí của mình trong lòng người, đó là những con người được ngưỡng mộ vì tài năng, học vấn⇒ Góp phần không nhỏ khắc gợi không khí náo nhiệt truyền thống, nét văn hòa không thể bỏ qua của mùa xuân trong tâm thức cổ truyền của dân tộc⇒ Nhịp thơ nhanh ⇒ giữa không khí náo nức, ông đồ như một người nghệ sĩ, mang hết tài năng của mình hiến cho cuộc đờib. Hình ảnh ông đồ khi Nho học lụi tàn- “Nhưng mỗi năm mỗi vắng” từ “nhưng” tạo bước ngoặt trong cảm xúc người đọc, sự suy vi ngày càng rõ nét, người ta có thể cảm nhận một cách rõ ràng, day dứt nhất- “Người thuê viết nay đâu?” câu hỏi thời thế, cũng là câu hỏi tự vấn⇒ Sự đối lập của khung cảnh với 2 khổ đầu ⇒ nỗi niềm day dứt, vẫn ông đồ xưa, vẫn tài năng ấy xuất hiện nhưng không cần ai thuê viết, ngợi khen- “Giấy đỏ ...nghiên sầu” Hình ảnh nhân hoá, giấy bẽ bàng sầu tủi, mực buồn động trong nghiên hay chính tâm tình của người nghệ sĩ buồn đọng, không thể tan biến được- “Lá bàng...mưa bị bay” Tả cảnh ngụ tình nỗi lòng của ông đồ. Đây là hai câu thơ đặc sắc nhất của bài thơ. Lá vàng rơi gợi sự cô đơn, tàn tạ, buồn bã, mưa bụi bay gợi sự ảm đạm, lạnh lẽo ⇒ tâm trạng con người u buồn, cô đơn, tủi phậnc. Tình cảm của nhà thơ- Thời gian Mùa xuân với hoa đào nở lại sự lặp lại tuần hoàn của cảnh thiên nhiên- Hình ảnh “Không thấy”, phủ nhận sự có mặt của một người đã từng trở thành niềm ngưỡng vọng⇒ Kết cấu đầu cuối tương ứng làm nổi bật chủ đề bài thơ- “Những người muôn năm cũ...bây giờ?” Câu hỏi đặt ra dường như không phải để tìm một câu trả lời, đó như một niềm than thân, thương phận mình.⇒ Câu hỏi tu từ nhằm bộc lộ niềm tiếc thương, day dứt hết sức chân thành của tác giả trước sự suy vi của Nho học đương thời3. Kết bài- Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ Khắc họa thành công hình ảnh ông đồ và câu chuyện về cuộc đời của người nghệ sị Nho học với kết cấu chặt chẽ, ngôn từ gợi cảm...- Liên hệ bài học hiện nay Giữ gìn những giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thốngHướng dẫn Phân tích bài thơ Ông đồHình ảnh ông đồ được khắc họa trong mốc thời gian mùa xuân, đều gắn liền với mực tàu, giấy đỏ nhưng ở hai cảnh ngộ khác ảnh ông đồ ở thời vàng sonMỗi năm hoa đào nởLại thấy ông đồ giàBày mực tàu, giấy đỏBên phố đông người qua+ Ông đồ là người thuộc tầng lớp trí thức Hán học trong xã hội xưa, ông là người dạy học dạy chữ Nho. Ông được cả xã hội tôn vinh, là nhân vật trung tâm của đời sống văn hóa dân tộc khi nền Hán học và chữ Nho đang thịnh hành. Theo phong tục, khi Tết đến người ta tìm đến ông đồ để sắm câu đối hoặc chữ Nho trang trí nhà cửa và cầu mong những điều tốt lành.+ Vào thời điểm hoa đào nở “lại thấy” ông đồ cùng mực tàu, giấy đỏ. Nhịp điệu thơ sôi nổi, náo nức diễn tả sự xuất hiện của ông đồ già vào mỗi dịp Tết đến, xuân về. Hình ảnh ông đồ trở nên quen thuộc, gần gũi với tất cả mọi người cũng như phong tục văn hóa xin chữ lâu đời của người Việt nhiêu người thuê viếtTấm tắc ngợi khen tàiHoa tay thảo những nétNhư phượng múa, rồng bay+ Tài hoa của ông đồ được thể hiện hoa tay thảo những nét – như phượng múa rồng hay. Tài năng của ông được mọi người hết lời khen ngợi bao nhiêu người – tấm tắc ngợi khen tài.+ Như vậy, ông đồ là người được mọi người kính trọng, kính nể, là trung tâm chú ý của mọi người qua ảnh ông đồ ở thời tàn phaiNhưng mỗi năm, mỗi vắngNgười thuê viết nay đâu?Giấy đỏ buồn không thắmMực đọng trong nghiên sầụ+ Mỗi năm mỗi vắng – Người thuê viết nay đâu giọng thơ lắng xuống, điệp từ mỗi gợi sự xa vắng, thưa thớt dần – hình ảnh ông đồ xa vắng dần với mọi người và người yêu mến ông cũng thưa dần đi. Phép nhân hóa giấy đỏ buồn, mực sầu diễn tả hình ảnh giấy mực cũng thấm đẫm nỗi buồn thương, ảm đạm của chủ. Ông đồ vẫn ngồi đó, đường phố vẫn đông nhưng không ai biết đến sự có mặt của ông, cuộc đời đã khác, đã lãng quên ông. Hình ảnh ông lạc lõng, lẻ loi. Nỗi buồn, nỗi sầu của ông đồ như bao trùm cảnh vật xung quanh ông, thấm đẫm không gian đất trời. Giọng thơ lắng đọng, buồn thương man mác.+ Như vậy, ông đồ không còn được coi trọng, vị thế của ông đã đối lập giữa hai hình ảnh ông đồ thời vàng son và thời tàn phai thể hiện sự tàn lụi của một nền học thuật, của một truyền thông văn đồ vẫn ngồi đấyQua đường không ai hayLá vàng rơi trên giấyNgoài trời mưa bụi bay+ Nền học thuật xưa coi trọng chữ Hán, người dân có truyền thống xin chữ cầu may vào những dịp đầu năm. Hoa đào nở – mực tàu – giấy đỏ cùng hình ảnh ông đồ già gợi không khí của văn hóa, không khí của cái đẹp. Thêm vào đó là hình ảnh đông vui, tấp nập của người qua đường tới thuê viết chữ, xem chữ, ngợi khen ông đồ. Nhưng truyền thống văn hóa tốt đẹp đó đang dần tàn lụi bởi mỗi năm mỗi vắng, những người thuê viết nay không còn tới. Bởi thế, vẫn là không khí văn hóa của cái đẹp hoa đào nở – mực tàu – giấy đỏ – ông đồ nhưng tất cả đã mang một sắc thái khác giấy buồn, mực sầu, ông đồ ngồi bên đường mà không ai hay, quang cảnh xung quanh cũng gợi sự tàn lụi, buồn với những hình ảnh lá vàng, mưa nay đào lại nởKhông thấy ông đồ xưaNhững người muôn năm cũHồn ở đâu bây giờ?+ Khổ thơ cuối, hoa đào vẫn nở nhưng hình ảnh ông đồ đã biến mất gợi lên một nỗi buồn, một niềm trắc ẩn sâu xa cho những người đã trở thành cũ kĩ trước năm tháng và bị thời thế khước từ. Đó là sự biến mất không chỉ của một người ông đồ mà còn là cả một thế hệ những người yêu và tôn thờ cái đẹp trong xã hội đương thời.– Khắc họa hình ảnh ông đồ, bài thơ toát lên niềm cảm thương sâu sắc trước một lớp người đang tàn tạ và nỗi nhớ tiếc cảnh cũ người xưa của nhà thơ. Mở đầu bài thơ là hình ảnh ông đồ già, kết thúc bài thơ không thấy ông đồ. Kết cấu “đầu cuối tương ứng” và tứ thơ “cảnh cũ người đâu” đã thể hiện thành công niềm thương tiếc khắc khoải của nhà thơ khi vắng bóng ông đồ. Đó là niềm cảm thương chân thành trước số phận, tình cảm của những ông đồ đang tàn tạ khi thời thế đổi thay. Đồng thời nhà thơ thể hiện tâm trạng, nhớ nhung tiếc nuối cảnh cũ người xưa nay đã vắng bóng. Tâm trạng này thể hiện một tinh thần nhân văn và một tinh thần dân tộc cao đẹp tiếc nuối phong tục văn hóa truyền thống đã tàn phai.Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Ông đồ của Vũ Đình LiênPhân tích bài Ông đồ mẫu 1Trước kia trên bàn thờ tổ tiên, bên cạnh cặp bánh chưng, mâm ngũ quả là đôi câu đối tết. Chính vì vậy mà những ông đồ già trên vỉa hè phố xá rất đông khách thuê viết chữ và hình ảnh đầu đội khăn xếp mặc áo the đã khắc sâu vào tâm trí của người dân Việt Nam, nhà thơ Vũ Đình Liên là một trong số đó. Để rồi tác giả viết lên bài thơ Ông đồ với 1 niềm thương cảm sâu sắc cho thân phận 1 lớp người tàn tạ và sự nuối tiếc 1 truyền thống đẹp đẽ của dân đầu bài thơ Ông đồ hình ảnh đã xuất hiện trong dòng suy tưởng, hoài niệm của tác giảMỗi năm hoa đào nởLại thấy ông đồ giàBày mực tàu giấy đỏBên phố đông người quaCấu trúc mỗi.. lại cho ta thấy ông đồ chính là 1 hình ảnh vô cùng quen thuộc với người dân Việt Nam vào mỗi dịp tết đến xuân về. Cùng với màu thắm của hoa đào, màu đỏ của giấy, màu đen nhánh của mực tàu và sự đông vui, náo nhiệt của ngày tết thì hình ảnh ông đồ đã trở nên không thể thiếu được trong bức tranh mùa xuân. Lời thơ từ tốn mà chứa bao yêu thương. Dẫu chỉ chiếm 1 góc nhỏ trên lề phố nhưng trong bức tranh thơ thì ông đồ lại chính là trung tâm, ông đã hòa hết mình vào cái không khí nhộn nhịp của ngày tết với những tài năng mình cóBao nhiêu người thuê viếtTấm tắc ngợi khen tàiHoa tay thảo những nétNhư phượng múa rồng bayTừ bao nhiêu cho người đọc thấy được nghề cho chữ đã từng được mọi người rất yêu mến. Sự có mặt của ông đồ đã thu hút sự chú ý của mọi người, ông chính là trung tâm của sự kính nể và ngưỡng mộ. Hạnh phúc không chỉ là có nhiều người thuê viết mà còn được tấm tắc ngợi khen tài – Bởi ông có tài viết chữ rất đẹp. Ba phụ âm 't' cùng xuất hiện trong 1 câu như 1 tràng pháo tay giòn giã để ca ngợi cái tài năng của ông. Giữa vòng người đón đợi ấy ông hiện lên như 1 người nghệ sĩ đang say mê, sáng tạo, trổ hết tài năng tâm huyết của mình để rồi ông được người đời rất ngưỡng mộ. Với sự ngưỡng mộ đó thì Vũ Đình Liên còn thể hiện 1 lòng tự hào về truyền thống tốt đẹp của dân tộc là chơi câu đối chữ. Nhưng liệu có bao nhiêu người thuê viết hiểu được ý nghĩ sâu xa của từng câu, từng chữ để mà chia sẻ cái niềm vui, niềm hạnh phúc với người viết ra những câu chữ ấy?. Ở khổ thơ thứ 3 vẫn nổi bật hình ảnh ông đồ với mực tàu giấy đỏ, nhưng mọi thứ đã khác xưa. Không còn đâu bao nhiêu người thuê viết- Tấm tắc ngợi khen tài mà thay vào đó là cảnh tượng vắng vẻ đến thê lương. Với cảm xúc buồn thương thấp thoáng ở 2 câu thơ trên, giờ đây cái cảm xúc đó được thể hiện trong câu hỏi đầy băn khoăn day dứtNhưng mỗi năm mỗi vắngNgười thuê viết nay đâu?Cũng là mỗi năm nhưng lại đứng sau từ nhưng - còn chữ thường làm đảo lộn trật tự quen thuộc. Số người còn chút mến yêu và kính trọng chữ nho giờ cũng mỗi năm mỗi vắng, khách quen cũng tan tác mỗi người một ngả. Để rồi 1 chút hy vọng nhỏ nhoi của Ông đồ là góp chút tài nghệ cùng mọi người vào mỗi dịp tết đến xuân về cũng dần tan biến bởi cuộc sống mưu sinh cũng ngày càng khó khăn. Bằng câu hỏi tu từ hết sức độc đáo, Vũ Đình Liên đã thể hiện 1 nỗi nuối tiếc của 1 thời kì vàng son để rồi đọng lại thành nỗi sầu, nỗi tủi thấm sang cả những vật vô tri vô giácGiấy đỏ buồn không thắmMực đọng trong nghiên sầuGiấy đỏ là thứ giấy dùng để ông đồ viết chữ lên, đó là 1 thứ giấy rất mỏng manh chỉ cần 1 chút ẩm ướt cũng có thể phai màu. Vậy mà “Giấy đỏ buồn không thắm” - không thắm bởi lâu nay không được dùng đến nên phôi pha úa tàn theo năm tháng. Mực cũng vậy - đó là thứ mực đen thẫm để ông đồ viết chữ, trước khi dùng thì ta phải mài mực rồi dùng bút lông họa lên những nét chữ. Nhưng nay “Mực đọng trong nghiên sầu” nghĩa là mực đã được mãi từ lâu, đã sẵn sàng cho bàn tay tài hoa của ông đồ để trổ tài nhưng đã đợi chờ trong vô vọng. Các từ buồn, sầu như thổi hồn vào sự vật cùng với phép nhân hóa đã khiến cho giấy đỏ, mực tàu vốn vo tri bỗng trở nên có hồn có suy nghĩ như con người. Nỗi buồn đó không chỉ thấm vào những đồ dùng mưu sinh hằng ngày mà cảm xúc đó của ông còn lan ra khung cảnh thiên nhiên, cảnh vật khiến không gian trở nên thật đìu hiu, xót xaÔng đồ vẫn ngồi đóQua đường không ai hayLá vàng rơi trên giấyNgoài giời mưa bụi bayTuy nghề viết chữ không được người đời yêu mến và kính trọng nữa nhưng ông đã kiên trì, cố gắng ngồi bên lề đường chờ mong sự cưu mang giúp đỡ của người đời. Nhưng đâu có 1 ánh mắt nào để ý đến ông bên lề phố, không một trái tim nào đồng cảm và chia sẻ với ông. Bằng biện pháp tả cảnh ngụ tình nhà thơ Vũ Đình Liên đã cho ta thấy 1 khung cảnh thiên nhiên thật xót xa, đìu hiu trước tâm trạng của ông đồLá vàng rơi trên giấyNgoài giời mưa bụi bayNhưng thật băn khoăn tại sao giờ đang là mùa xuân lại có lá vàng rơi? Phải chăng hình ảnh lá vàng rơi gợi đến sự tàn phai, tàn lụi về 1 thời kỳ, 1 lớp người trong xã hội và 1 phong tục tập quán đẹp đẽ của dân tộc Việt Nam là chơi câu đối đỏ ngày tết giờ cũng trở thành quá khứ. Hình ảnh ông đồ cũng giống như hình ảnh lá vàng rơi, đã gắng níu kéo cuộc đời thầm lặng của mình nhưng so với thời đại mới thì chỉ còn là chiếc lá úa tàn đang rơi rụng. Nỗi buồn ấy âm thầm, tê tái nó đã khiến cơn mưa xuân vốn sức sống bền bỉ cũng trở nên đìu hiu xót xaNgoài giời mưa bụi bayGiời - đó phải chăng là cách nói dân gian của những người tưởng như đã xa xưa lắm nhưng vẫn luôn hiện hữu. Câu thơ gợi ra tâm trạng buồn thảm của ông đồ trước cơn mưa bụi nhạt nhòa. Dẫu chỉ là mưa bay, mưa bụi nhưng nó cũng đủ sức xóa sạch đi dấu vết của 1 lớp người. Tuy đã không còn được người đời yêu mến, trọng vọng nữa nhưng đối với nhà thơ thì hình ảnh này vẫn luôn khắc sâu trong trái timNăm nay đào lại nởKhông thấy ông đồ xưaMở đầu bài thơ Ông đồ là hình ảnh rất nhẹ và kết thúc cũng với hình ảnh rất khẽ khàng. Năm xưa khi đào nở ta thấy ông đồ ngồi bên lề đường và hòa mình vào sự đông vui náo nhiệt của phố phường. Nhưng nay cùng thời điểm đó thì ông đã không còn nữa, hình ảnh xưa cũ cũng dần tan biến vào dòng thời gian. Tết đến xuân về, hoa đào lại nở, người người thì háo hức đi chợ sắm tết để chờ mong 1 năm đầy niềm vui và hy vọng. Tất cả đều rạo rực, tưng bừng. Cảnh còn đó nhưng người thì đâu? Giờ đây hình ảnh ông đồ chỉ còn là cái di tích tiều tụy đáng thương của 1 thời tàn, ông đã bị người đời quên lãng, bỏ rơi ngoài 1 thi sĩ Vũ Đình Liên. Dòng đời cứ trôi dần và trôi đi cả cuộc sống thanh bình đẹp đẽ, giờ chỉ còn là 1 nỗi trống trải, bâng khuâng để rồi nhà thơ cũng phải bật thành câu hỏi đầy cảm xúcNhững người muôn năm cũHồn ở đâu bây giờ?Hai câu thơ cuối tác giả đã trực tiếp bộc lộ cảm xúc dâng trào, kết đọng mang chiều sâu khái quát. Từ hình ảnh ông đồ nhà thơ liên tưởng đến hình ảnh những người muôn năm cũ và thi sĩ hỏi 1 cách xót xa Hỏi mây hỏi trời, hỏi cuộc sống hỏi 1 thời đại, hỏi mà để cảm thông cho thân phận của những người muôn năm cũ đã bị thời thế khước từ. Câu hỏi tu từ đặt ra như 1 lời tự vấn, tiềm ẩn sự ngậm ngùi, xót thương. Và tất cả những gì của 1 thời hoàng kim giờ cũng chỉ còn 1 màu sắc nhạt phai, tê tái. Với cách sử dụng thành công biện pháp tu từ, nhà thơ Vũ Đình Liên đã tái hiện lên hình ảnh ông đồ với cái di tích tiều tụy đáng thương của 1 thời tàn khiến chúng ta lại càng cảm thương, xót xa cho số phận của với bài thơ Ông đồ ngụ ngôn ngắn gọn, tác giả đã làm sống dậy trong lòng người 1 niềm thương của sự luyến tiếc không nguôi. Đọc bài thơ ta cảm nhận được ở Vũ Đình Liên - một con người có lòng thương người, lòng nhân ái, sự cảm thông sâu sắc và luôn ân nghĩa thủy tích bài Ông đồ mẫu 2Vũ Đình Liên là một trong những nhà thơ mở đầu cho phong trào thơ mới. Tác phẩm của vũ đình liên không nhiều nhưng đều là những tác phẩm có giá trị nghệ thuật, giá trị nhân văn sâu sắc. trong những tác phẩm còn để lại cho đến ngày nay của ông, Ông đồ là tác phẩm nổi bật nhất. Bài thơ ông đồ là niềm hoài cổ của tác giả với một nét đẹp truyền thống xưa đang dần bị mai thơ ra đời khi nho học bị thất sủng, những tinh hoa nho giáo xưa nay chỉ còn là tàn tích, ông đồ và chữ nho cũng trở thành một tàn tích khi người ta vứt bút lông đi dắt bút chìHai khổ thơ đầu, vũ đình liên gợi nhắc lại thời huy hoàng của ông đồMỗi năm hoa đào nởLại thấy ông đồ giàBày mực tàu giấy đỏBên phố đông người quaBao nhiêu người thuê viếtTấm tắc ngợi khen tàiHoa tay thảo những nétNhư phượng múa rồng bayKhổ thơ đầu gợi nên thời gian, địa điểm nơi ông đồ làm việc. Thời gian là vào mùa xuân, mùa đẹp nhất trong năm với hình ảnh hoán dụ là hoa đào nở đã cho ta biết ông đồ làm việc khi trời đất bắt đầu vào độ đẹp nhất của năm Không khí mùa xuân, hình ảnh hoa đào nở đã tươi thắm nay lại thêm “mực tàu giấy đỏ” làm mọi nét vẽ trong bức tranh tả cảnh ông đồ thời kỳ huy hoàng này đậm dần lên, rõ nét, tươi vui, tràn đầy sức sống. Đặc biệt là từ lặp lại về thời gian “lại” đã cho thấy sự gắn bó lâu dài giữa ông đồ với mùa xuân, công việc viết chữ của ông đồ không chỉ diễn ra trong một năm mà đã từ mùa xuân năm này qua mùa xuân năm khác. Địa điểm nơi ông đồ viết chữ là “bên phố đông người qua” dòng người đông đúc nơi phố phường mỗi dịp xuân về, quan trọng hơn cả là dòng người đông đúc ấy đều quan tâm đến ông đồ “bao nhiêu người thuê viết” và biết thưởng thức tài năng của ông đồ “tấm tắc ngợi khen tài”. Tác giả tả nét chữ của ông đồ “hoa tay thảo những nét/ như phượng múa rồng bay” Nghệ thuật so sánh của 2 câu thơ này làm toát lên khí chất trong từng nét chữ của ông đồ, đó là nét chữ đẹp, phóng khoáng, cao quý, qua việc ngợi khen nét chữ, tác giả gửi gắm sự kính trọng, ngưỡng mộ, nâng niu nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc. trong 2 khổ thơ đầu, hình ảnh ông đồ xưa trong thời kì huy hoàng của mình được tác giả kính trọng ngưỡng mộ, qua hình ảnh ông đồ, vũ đình liên cũng thể hiện tình cảm chân quý đến những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộcHai khổ thơ tiếp theo tác giả vẽ lên bức tranh ông đồ thời nay, một kẻ sĩ lạc lõng giữa dòng đời đã không còn phù hợp, dòng đời mà ở đó chữ nho đã trở thành một tàn tíchNhưng mỗi năm mỗi vắngNgười thuê viết nay đâuGiấy đỏ buồn không thắmMực đọng trong nghiên sầuÔng đồ vẫn ngồi đóQua đường không ai hayLá vàng rơi trên giấyNgoài trời mưa bụi bay“năm nay đào lại nở” khung cảnh mùa xuân vẫn diễn ra nhưng con người đã thay đổi, “Người thuê viết nay đâu” đây là một câu hỏi tu từ chứa đựng băn khoăn cũng như nỗi buồn của tác giả trước sự thay đổi của con người, mùa xuân vẫn đẹp như thế, nhưng con người nay đã không còn quan tâm đến nét đẹp văn hóa xưa. Đây là câu thơ vẽ lên cảnh lụi tàn của văn hóa chữ nho xưa. “giấy đỏ buồn không thắm/ mực đọng trong nghiên sầu” trước sự hờ hững của con người, đồ vật cũng ám muội muộn phiền, hình ảnh nhân hóa khiến cho giấy đỏ, mực nghiên cũng có cảm xúc như con người, bị lãng quên, giấy đỏ cũng nhạt màu đi, mực đọng lại nơi nghiên hay đọng lại trong nỗi buồn, “nghiên sầu” nghe thật bi ảnh ông đồ thời nay cũng đã thay đổi, “ông đồ vẫn ngồi đó/ qua đường không ai hay” nếu như trước đây là “bao nhiêu người thuê viết/ tấm tắc ngợi khen tài” thì nay hình ảnh ông đồ âm thầm lặng lẽ, mờ phai dần trong sự lãng quên của mọi người. Vốn dĩ nghề ông đồ là nghề của những nho gia xưa không đạt được ước mơ khoa bảng phải về bốc thuốc, dạy học, hay trải chiếu bán chữ, là việc bất đắc dĩ của một nho gia, chữ nghĩa chỉ để cho chứ ai lại bán, như huấn cao trong chữ người tử tù cả đời chỉ cho chữ 3 lần, vậy mà ở đây ông đồ phải bán chữ để kiếm sống đã đủ thấy bất hạnh của kiếp người nho sĩ. Trước đây, được mọi người đón nhận, ít ra còn kiếm sống được bằng nghề này, đến nay, nho học thất sủng, người ta không còn quan tâm đến ông đồ, đến chữ ông viết, tức là không kiếm sống được bằng chính khả năng của mình nữa, ở đây không chỉ là bất hạnh của tài năng mà còn là bất hạnh cơm áo gạo tiền. khung cảnh quanh ông đồ cũng chứa đựng nỗi buồn “lá vàng rơi trên giấy/ngoài trời mưa bụi bay” nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, cảnh vật mùa xuân cũng trở nên tàn tạ, buồn theo nỗi buồn của con người, quả là “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” nguyễn duKhổ thơ cuối tác giả dùng để bày tỏ nỗi lòng thương xót đối với ông đồ cũng như đối với một nét đẹp văn hóa bị mai một của dân tộcNăm nay hoa đào nởKhông thấy ông đồ xưaNhững người muôn năm cũHồn ở đâu bây giờMở đầu bài thơ tác giả viết “mỗi năm hoa đào nở/ lại thấy ông đồ già” kết thúc bài thơ tác giả viết “năm nay hoa đào nở/ không thấy ông đồ xưa” kết cấu đầu cuối tương ứng của bài thơ giúp cho bài thơ chặt chẽ, có tính liên kết thành một thể thống nhất song cũng khắc sâu nỗi buồn của tác giả trước sự biến mất ngày càng rõ ràng của nét đẹp truyền thống dân tộc. cảnh thiên nhiên vẫn tươi đẹp, hoa đào vẫn nở nhưng ông đồ không còn “bày mực tàu giấy đỏ” ông đồ đã biến mất hoàn toàn trong bức tranh mùa xuân không thay đổi ấy, thời gian cảnh vật đã quên lãng đi người xưa, hay chính là nét đẹp truyền thống đã biến mất? câu hỏi tu từ “những người muôn năm cũ/ hồn ở đâu bây giờ?” là sự tiếc thương của tác giả với ông đồ với giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộcVới thể thơ ngũ ngôn gieo vần chân, lời thơ bình dị nhưng sâu lắng, cô đọng, lời thơ giống như một lời kể chuyện thuật lại nét đẹp truyền thống xưa của dân tộc, kết cấu đầu cuối tương ứng chặt chẽ, bài thơ chứa đựng đủ những yếu tố nghệ thuật đặc sắc nhất. Qua những nét nghệ thuật tiêu biểu đó, tác giả thể hiện nỗi niềm xót thương đối với ông đồ cũng như niềm tiếc nuối cho sự mất đi của một nền văn hóa dân tích bài Ông đồ mẫu 3Mỗi người đều có một quê hương và một cảm thức khác nhau về quê hương. Trong dòng chảy miên viễn của thời gian. Vũ Đình Liên khắc khoải với nỗi lo về sự tàn phai mai một của bản sắc văn hóa. Và với “Ông đồ”, nhà thơ đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh con người hiện đại về ý thức giữ gìn bản sắc dân tộc, về những vẻ đẹp, giá trị của một thời vang bóng, để ta cần một phút lắng lại lòng mình mà suy nghĩ về quê hương, về nguồn cội, về trách nhiệm của chính mình. Bài thơ ra đời khi ông đồ đã trở thành cái di tích của một thời tàn. Nho học đã bị thất sủng, người ta đua nhau chạy theo thời đại với chữ Pháp chữ đoạn đầu bài thơ, tác giả giới thiệu những ngày huy hoàng của ông đồBao nhiêu người thuê viếtTấm tắc ngợi khen tàiHoa tay thảo những nétNhư phượng múa rồng là khi mà chữ Nho được trọng vọng. Những nét chữ Nho đẹp, vuông vắn, tươi tắn, mang chứa trong nó những giá trị sâu rễ bền gốc của một thời kì văn hóa, và ông Đồ bằng tài hoa của mình được ngợi khen. Với một người nghệ sĩ còn gì chân quý hơn tấm lòng mến mộ của khách tứ phương. Nhưng thời thế đổi thay,bởi chẳng có gì là vĩnh viễn. Và trong dòng chảy ấy của thời gian, rất dễ cuốn đi những chân giá trị. Trong dòng chảy ấy, ông đồ cũng không nằm ngoài số phậnNhưng mỗi năm mỗi vắngNgười thuê viết nay đâu?Giấy đỏ buồn không thắmMực đọng trong nghiên sầu...Ông đồ vẫn ngồi đấyQua đường không ai hayLá vàng rơi trên giấyNgoài giời mưa bụi đồ rơi vào tình cảnh một nghệ sĩ hết công chúng, một cô gái hết nhan sắc. Còn duyên kẻ đón người đưa, Hết duyên đi sớm về trưa một mình. Ông đồ vẫn ngồi đấy mà không ai hay. Ông Đồ giữa dòng đời vội vã của những con người hiện đại chỉ như một ốc đảo trơ trọi, cô đơn lạnh giá. Cái hiện thực ngoài đời là thế và chỉ có thế, nó là sự ế hàng. Nhưng ở thơ, cùng với cái hiện thực ấy còn là nỗi lòng tác giả nên giấy đỏ như nhạt đi và nghiên mực hóa sầu tủi. biện pháp nhân hóa được sử dụng rất đắt đã khiến những vật dụng vô tri như mang nặng một linh hồn, như càng thêm ám ảnh trong tâm trí người đọc. Hay nhất là cộng hưởng vào nỗi sầu thảm này là cảnh mưa phùn gió bấc. Là mưa của đất trời giăng giăng hay là nỗi giá rét và buốt lặng trong tâm hồn con người. Không biết nữa, chỉ biết rằng có một di tích tiều tụy đáng thương ngồi đấy, trong dáng ngồi bất động, giữa làn mưa bụi bay. Mùa xuân lại có lá vàng, quả là một sự đối nghịch, nhưng cái nghịch lí để lí giải sự có lí của tình cảm. Bởi giờ đây, ông đồ chỉ còn là cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn, bởi vậy mà“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầuNgười buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”Người xưa có câu “thi trung hữu họa”, và ở đây với bài thơ này quả là xác tả thật ít lời mà cảnh hiện ra như vẽ, không chỉ bóng dáng ông đồ mà cả cái tiêu điều của xã hội qua mắt của ông đồ. Tác giả đã có những chi tiết thật đắt nơi ông đồ là bút mực, nơi trời đất là gió mưa, nơi xã hội là sự thờ ơ không ai hay. Thể thơ năm chữ vốn có sức biểu hiện những chuyện dâu bể, hoài niệm, đã tỏ ra rất đắc địa, nhịp điệu khơi gợi một nỗi buồn nhẹ mà thấm. Màn mưa bụi khép lại đoạn thơ thật ảm đạm, lạnh, buồn, vắng. để rồi một thoáng bâng khuâng, ta cũng phải cúi đầu soi lại mình trong câu hỏi đầy da diết và nao lòng của người nghệ sĩNăm nay đào lại nởKhông thấy ông đồ xưaNhững người muôn năm cũHồn ở đâu bây giờ?Ông đồ đã bị hất tung ra khỏi ngoài rìa xã hội, một mình bôm bút nghiên giấy mực lặng lẽ về với mảnh đất của mình. Ông đã cố bám lấy xã hội hiện đại, lũ người hiện đại chúng ta đã nhìn thấy sự cố sức của ông, đã thấy ông chới với, nhưng chúng ta đã không làm gì, để đến bây giờ quay nhìn lại, mới biết ông đã bị buông rơi tự bao giờ. Bóng dáng ông đâu phải bóng dáng của một người, của một nghề, mà là dáng của cả một thời đại, bóng dáng kí ức của chính tâm hồn chúng ta. Đến bây giờ chúng ta mới thấy luyến tiếc, nhưng quá muộn rồi. Hỏi trời, hỏi đất, hỏi người, hỏi cả một xã hội. rằng thế hệ chúng ta đã làm gì với một nét đẹp văn hóa của dân tộc, đã cuốn phăng đi có lẽ nào là cả chính mình trong xã hội nhỡn tiền. Hôm nay ngoảnh đầu nhìn lại, thảng thốt bỗng nhớ cái gọi là “ngày xưa”. Hỏi hay khấn khứa tưởng niệm, hay ân hận sám hối. đó đâu chỉ là câu hỏi, mà là lời day dứt, là tiếng nấc nghẹn của nhà thơ khi chứng kiến cảnh tượng ấy của văn hóa dân tộc. Hai câu thơ hàm súc nhất của bài, chúng ta đọc ở đấy số phận của ông đồ và nhất là đọc được thái độ, tình cảm của cả một lớp người đối với những gì thuộc về dân tộc, về ngữ pháp câu thơ này rất lạ, nhưng không ai thấy cộm Những người muôn năm cũ. Muôn năm, thật ra chỉ là vài ba năm, nhưng nói muôn năm mới đúng, thời ông đồ đã xa lắc rồi, đã lẫn vào với những bút, những nghiên rất xa trong lịch sử. Chữ muôn năm cũ của câu trên dội xuống chữ bây giờ của câu dưới càng gợi bâng khuâng luyến một nỗi niềm rất riêng, một lòng yêu văn hóa xứ sở. Vũ Đình Liên đã gọi dậy trong tâm thức bạn đọc một nét đẹp văn hóa của một thời vang bóng. Để một thoáng nhìn lại mình, ta tự vấn lòng, ta đã làm chi cuộc đời ta, ta đã làm gì với sự ơ hờ, vô tâm. Ta vô tư tung thả mình, ta hồn nhiên góp phần chạy đua, đánh mất bản sắc dân tộc để đến với những thú vui thời thượng, trong khi đó mới chính là những chân giá trị vĩnh hằng cho nguồn cội mỗi cá tích bài Ông đồ mẫu 4Sự tài hoa tận tụy của một nghệ sĩ không phải được đánh giá bằng số lượng những tác phẩm trong một gia tài văn chương đồ sộ mà là ở những dư vang của đứa con tinh thần mà người nghệ sĩ hết mực nuôi nấng. Có những nhà thơ viết không nhiều nhưng lại in dấu ấn để trong lòng mỗi chúng ta ám ảnh về những vần thơ, Vũ Đình Liên là một trong những cây bút như thế. Xuất hiện ẩn hiện trong làng thơ như một người yêu con chữ và hết lòng với ngôn từ, Vũ Đình Liên đã vẽ nên hình ảnh huy hoàng tuyệt mĩ của một quá khứ đáng mong ước và tự hào qua bài thơ “Ông đồ”.Mở đầu bài thơ, ta bắt gặp ngay quy luật của tự nhiên hay quy luật của chính con ngườiMỗi năm hoa đào nởLại thấy ông đồ giàBày mực Tàu, giấy đỏBên phố đông người quaSự kiện hoa đào nở gợi nhắc ta về một không khí tết, một ngày đầu xuân mà mỗi năm đều có theo quy luật muôn đời của tạo hóa. Dường như trong sự vận động có quy luật ấy của thiên nhiên, ông đồ xuất hiện như một thói quen, như một điều hết sức hiển nhiên với một từ “lại”. Hình ảnh của ông gắn với mực Tàu, giấy đỏ,… những vận dụng của nhà nho xưa, tất cả là phông nền văn hóa cho một truyền thống cổ truyền của dân tộc đó là Cho Chữ ngày tết với mong ước về một năm mới bình an. Và những câu thơ tiếp theo, hình ảnh ông đồ hiện ra thật tài hoa, rạng rỡBao nhiêu người thuê viếtTấm tắc ngợi khen tài“Hoa tay thảo những nétNhư phượng múa, rồng bay”“Hoa tay” chính là để chỉ tài năng viết chữ của ông đồ. Ta dường như có thể tượng tượng được một ông đồ già với áo dài, khăn xếp, đang tỉ mẩn trên khuôn giấy đỏ tươi, nắn nót những chữ Nho, tay chuyển động nhịp nhàng, khi thanh, khi đậm, tạo nên những đường nét đẹp mềm mại mà lại chắc chắn, được so sánh y như là rồng phượng hiện hình trên trang giấy. Vào lúc ấy, những người xung quanh đều trầm trồ thán phục, thể hiện rằng họ đang vô cùng trọng vọng người tạo ra con chữ và chính con chữ dân tộc tuyệt vời kia. Nhưng rồi, ta dễ dàng nhận ra ngay sự tàn phai của một quá khứ huy hoàng khi màNhưng mỗi năm mỗi vắngNgười thuê viết nay đâu?Giấy đỏ buồn không thắmMực đọng trong nghiên sầu...Câu hỏi tu từ như xoáy sâu vào lòng người đọc, câu nghi vấn của nhà thơ đâu chỉ đơn thuần là đang hỏi về những người thuê viết. Sự tấp nập của những người thuê viết chữ khi xưa chính là hiện thân của một thời đại trọng đạo Nho truyền thống, nay đã vắng bóng, liệu có phải là sự đau lòng ám chỉ về sự mai một của những giá trị văn hóa truyền thống ngày nào. Câu thơ “mỗi năm mỗi vắng” cứ tạo sự lẻ loi thưa thớt dần đi những giá trị lâu đời. Biện pháp nhân hóa “giấy đỏ buồn”- “mực sầu” đã cụ thể hóa nỗi sầu nơi con người. Đây trước hết là hình ảnh thực, khi mà người thuê viết vắng, giấy để lâu cũng phai màu, không còn giữ được đỏ như lúc mới, mực lâu không dùng đến, không mài nên cũng đọng lại một chỗ. Nhưng phải chăng, với từ “buồn”, từ “sầu”, nhà thơ như để người đọc cảm nhận được rằng, vì người đời đã thờ ơ nên giấy cũng “buồn” mà trở nên không còn tươi như trước, mực vì sầu mà cũng không buồn nhấc mình, cứ đọng lại trong nghiêng. Nỗi buồn của ông đồ hay là của nhà thơ đã thấu sang cảnh vật? Hình ảnh ông đồ lúc này thật lẻ loi, cô bóngÔng đồ vẫn ngồi đấyQua đường không ai hayLá vàng rơi trên giấyNgoài trời mưa bụi bayMột ông đồ năm xưa được trọng vọng, được ngưỡng mộ là thế mà nay như một người bị gạt ra khỏi lề xã hội. Ông vẫn như năm nào, trung thành với cây bút “vẫn ngồi đấy” chỉ có điều rằng nhân tình đã đổi thay, không còn ai chú ý đến ông thậm chí phớt lờ sự tồn tại của ông. Người qua đường đi trong vội vã, đi ngang qua mà chẳng hề hay ông ngồi đó. Hình ảnh của ông cứ lặng lẽ buồn tênh như vậy cho tới mức có chiếc lá vàng rơi trên trang giấy cũng không còn buồn nhặt, mà có lẽ đó là lá vàng của một mùa thu sắp tàn của thời đại Nho Học. Vào cái thời buổi gió Á mưa Âu nổi cuồng phong trên mảnh đất quê hương, con người dường như để bản thân mụ mị mà phớt lờ đi những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc khiến cho chúng ngày càng tàn phai mai một, khi ấy cả hồn dân tộc nhuốm một màu buồn sầu lê thê như những đoạn mưa bụi không bao giờ khứ đã đi qua, khi này, có lẽ nhiều người mới chợt nhận ra sự vắng mặt của ông đồNăm nay đào lại nởKhông thấy ông đồ xưaNhững người muôn năm cũHồn ở đâu bây giờ?Nếu ở khổ trên hình ảnh ông đồ vẫn còn phảng phất cho dù là “không ai hay” thì ở đoạn này, ông biến mất. Đào thì vẫn nở, vũ trụ vẫn tuần hoàn nhưng không có bóng dáng của ông đồ già năm nào nữa rồi. Sự biến mất của ông cũng chính là sự biến mất của những giá trị văn hóa cổ truyền dân tộc. Câu hỏi cuối bài “Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ?” như là một lời chiêu hồn, gọi hồn tổ quốc, một tiếng kêu than vọng vang như muốn tìm lại đâu đây mảnh hồn dân tộc đang phai thơ chính là tấm lòng của một người nặng lòng với tổ quốc, với những nét văn hóa cổ truyền ngàn năm của dân tộc. Qua bài thơ, Vũ Đình Liên không chỉ bày tỏ niềm khắc khoải tha thiết của bản thân với giá trị của đạo Nho mà còn khắc vào lòng người đọc sự khát khao yêu mến những giá trị cổ truyền dân tích bài thơ Ông đồ mẫu 5Có nhiều người không làm nhiều thơ nhưng lại có bài thơ để đời như Vũ Đình Liên với bài thơ Ông thơ mở đầu bằng màu hoa đào. Câu thơ nở ra từ câu thơ của Thôi Hộ “Đào hoa y cựu tiếu đông phong”. Chính Vũ Đình Liên công nhận “Trong máu mỗi nhà thơ Việt Nam, đặc biệt giai đoạn đó, đều có một chút thơ Đường”. Chính trong màu hoa đào mênh mông hoài cảm ấy, ông đồ già xuất hiện. Ta có thể tưởng tượng sự có mặt của cây cổ thụ ngàn năm bật gốc sau bão lớn. Cây đổ, ngọn gục từ trên chót vót thứ bậc xã hội, ông đồ, hình bóng tượng trưng cho giai cấp kẻ sĩ rơi xuống lề đường trở thành người vất vưởng hoài nhớ giá trị cũ suy tàn, bỡ ngỡ với phong vận độ khoa cử Hán học cáo chung sau 8 thế kỉ rưỡi ngự trị, học thuật thanh chương với thành trì nghiêng ngả. Chữ Hán phải nhường vị trí quốc tự cho một thứ chữ mới Quốc ngữ. Những nhà Nho như ông đồ phải rời án thư ra tận hè phố kiếm sống. Ông kiếm sống còn khó khăn hơn những người khác, bởi họ làm ăn quanh năm còn ông chỉ những ngày giáp Tết. Chỉ những ngày đó nhớ bánh chưng xanh người ta nhớ luôn câu đối đỏ và nhờ ông viết chữ. May mà còn“Bao nhiêu người thuê viếtTấm tắc ngợi khen tài Hoa tay thảo những nét Như phượng múa rồng bay.”Họ nay đâu? Bánh chưng xanh còn đó, câu đối đỏ đi rồi! Nếp cũ đổi thay. Chữ Nho cũng trở thành món hàng ế không ai chuộng nữa. Trong xu thế chung không ai cưỡng lại ấy, tình cảnh ông đồ trở nên ngao ngán đáng thương. Nỗi sầu lo ủ dột lan thấm trên cả đồ vật “Giấy đỏ buồn không thắm - Mực đọng trong nghiên sầu” chính là hình ảnh của chủ nhân hết thời của chúng. Tàn tạ, lạc lõng, tiêu điều. Thiên hạ náo nức đón xuân, đón cả luồng gió mới Tây học mang lại... bỏ lại những người như ông đồ bên lề cuộc sống“Ông đồ vẫn ngồi đấy Qua đường không ai hay Lá vàng rơi trên giấy Ngoài giời mưa bụi bay.”Tôi cho đây là khổ thơ hay nhất trong bài thơ, ở đó cái lực của ngòi bút, cái tâm của con người hợp lại đủ sức lay động những trái tim thờ ơ, vô tình với một sự chung cục, một sự chung cục thầm lặng và thương tâm. Người trong cuộc bên phố đông lắng nghe mình lụi tàn. Người ngược xuôi như nước chẳng ai để ý đến cái bóng mờ nhạt, tàn tạ ấy. Ông đồ bị lãng quên ngay khi đang còn hiện hữu. Ông chẳng qua chỉ còn là “di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn”.Lá rơi không nghe tiếng, mưa bụi chẳng ướt ai. Thế mà nửa thế kỉ rồi đọc lại, tôi vẫn tái tê thấm thía nỗi đau lặng lẽ của chiếc lá vàng trên giấy thắm tàn phai. Thế mới biết sức sống của một bài thơ không phải chỉ ở ngôn từ, chính tấm lòng thương cảm tinh tế của tác giả đã làm ấm những dòng chữ lạnh với thời gian.“Năm nay đào lại nở Không thấy ông đồ xưa Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ.”Bài thơ mở ra màu hoa đào và khép lại cũng với màu hoa đào ấy... Nén hương đã thắp - Hoài niệm mênh mang. Ông đồ cụ thể lung linh thành những người muôn năm cũ. Đông, tây, kim, cổ đều gặp nhau ở một chữ HOÀI, thấm thía sầu nhân thế... Âm hưởng nốt nhạc cuối miên man day dứt, khiến người nghe cứ thẫn của một đời rồi sẽ qua, ai cũng vậy. Nhưng quả không hẳn là mất tiêu vô nghĩa. Hôm nay đã phôi thai từ hôm qua và ngày mai cũng sẽ từ ngày hôm nay. Ông đồ đã trở về thế giới yên nghỉ của ông, về với thời xa vắng. Người xưa thành ông cha, cái cũ thành di tích. Nét đẹp và sức mạnh của phương Đông ở bên trong và từ thăm thẳm. Nói đến văn hoá không thể không nói đến cội nguồn, nói đến hôm nay không thể phủ nhận hôm qua. Ẩn khuất, biến thái, lan tỏa, ngàn xưa với người xưa vẫn là một mảng đậm đà trong hồn dân tích bài thơ Ông đồ mẫu 6Vũ Đình Liên sinh năm 1913, là nhà thơ, nhà giáo từng giảng dạy tại trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội. Ông tham gia phong trào từ những ngày đầu; ông viết không nhiều nhưng bài thơ "Ông đồ" là một trong những bài thơ nổi tiếng của "Thơ mới".Viết bài "Ông đồ", nhà thơ đã thể hiện niềm thương cảm chân thành đối với một lớp người tài - tình sinh bất phùng thời đang tàn tạ, đóng thời xót thương, tiếc nhớ những cảnh cũ người xưa... Thơ mới ngũ ngôn có một số bài thơ tuyệt tác như "Chúc Hương" của Nguyễn Nhược Pháp, "Tiếng thu" của Lưu Trọng Lư, "Viễn khách" của Xuân Diệu... và "Ông đồ" của Vũ Đình ảnh Ông đồ già hiện lên đầu bài thơ được miêu tả bằng một số nét rất đậm và đẹp, càng về sau, cuối bài thơ càng mờ dần, thấp thoáng, đầy ám ảnh. Ông đồ là hình ảnh thân thuộc của xã hội Việt Nam xưa. Những nhà nho, nếu không đỗ đạt cao và đi làm quan, thì thường dạy học, gọi là "ông đồ". Ông đồ vừa dạy chữ Nho chữ Hán vừa truyền bá đạo "Thánh hiền". Cũng có một số ông đồ tài hoa, viết chữ đẹp mỗi dịp Tết đến xuân về lại bày giấy bút trên hè phố viết câu đối bày câu đối bằng chữ Nho viết bằng mực Tàu trên nền giấy đỏ trong dịp đón năm mới là một biểu hiện khá đẹp của nền văn hóa Việt Nam. Cuối thập kỉ 20 1918, nhà nước bảo hộ bãi bỏ các khoa thi chữ Hán, các nhà nho, những ông đồ trở thành những kẻ sinh không gặp thời bị gạt ra ngoài lề xã hội. Vì dần dần vắng bóng. Khi đó, ông đồ chỉ còn là "cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn "như Vũ Đình Liên đã nói. Tấm lòng của tác giả gửi gắm qua bài thơ là một sự cảm thương, xót thương sâu sắc rất chân khổ thơ đầu là hình ảnh ông đồ xa xưa "vang bóng một thời". Cùng với hoa đào nở đón xuân sang, ông đồ xuất hiện, sắc đào tươi thắm rực rỡ biểu tượng cho vẻ đẹp của thiên nhiên, của quê hương buổi xuân về. Ông đồ già với mực Tàu, giấy đỏ, với câu đối Tết tượng trưng cho vẻ cổ kính, một nét đẹp của nền văn hóa dân tộc. Câu thơ như một lời kể rủ rỉ, thấm thía, gợi ra cảnh vật và con người để chúng ta cùng tác giả nhìn thấy, cảm thấy"Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Bày mực Tàu giấy đỏ Bên phố đông người qua."Các từ ngữ "mỗi năm" và "lại thấy" vừa biểu hiện thời gian, vừa xác định sự vật, sự việc đã đi vào tiềm thức, đã trở thành một nếp sống đẹp của cộng đồng. Không thể thiếu ông đồ viết câu đối cũng như không thể không có câu đối Tết treo trong nhà để đón mừng năm mới. Khổ thơ thứ hai ca ngợi cái tài hoa của ông đồ"Bao nhiêu người thuê viếtTấm tắc ngợi khen tài Hoa tay thảo những nét Như phượng múa rồng bay".Hạnh phúc nhất của ông đồ thuở ấy không chỉ ở chỗ đông khách "bao nhiêu người thuê viết" mà còn là ở sự ngợi khen, bình phẩm "Tấm tắc ngợi khen tài", "Tấm tắc" nghĩa là nói luôn miệng, thốt từ đáy lòng những lời khâm phục, ngợi ca. Câu đối phải hay về nội dung, về ý nghĩa, phải đẹp, sắc sảo về chữ viết mới có giá trị, mới được thiên hạ "tấm tắc ngợi khen tài". Ông đồ trong bài thơ được ngợi ca là người có "hoa tay" viết nên những chữ đẹp "như phượng múa rồng bay". Người có hoa tay được coi là dấu hiệu của tài hoa sành điệu. "Thảo" là viết thái, viết nhanh, viết phóng Hán là loại văn tự tượng hình, mỗi chữ thường có nhiều nét. Viết chữ Hán có viết được nét chữ sắc, hình vuông vắn thì mới đẹp. Ông đồ là một nhà nho có hoa tay, rất điêu luyện nên mới "thảo những nét như phượng múa rồng bay". Ca ngợi văn hay, chữ đẹp, nhân dân ta có hai thành ngữ "Văn thả ngọc phun châu", "chữ như rồng bay phượng múa". Ông đồ viết câu đối rất đẹp, nét chữ sắc sảo, mềm mại, dòng chữ vuông vức, tung hoành nên mới được nhiều người ca ngợi như Đình Liên đã nói lên tình cảm trân trọng và khâm phục đối với những ông đồ ngày xưa, kín đáo thể hiện niềm tự hào đối với một hình thức viết chữ, chơi chữ, treo câu đối tết của nhân dân ta. Một đất nước có nền văn hiến lâu đời mới có phong cách sống tốt đẹp như gian trôi qua, những mùa xuân cũng nối tiếp trôi qua. Xã hội đã có nhiều đổi thay. Có cảnh có người bị hiện thực phũ phàng định giá lại. Ông đồ dần dà bị rơi vào quên lãng. Hai khổ thơ 3,4 đầy ám ảnh. Nhạc điệu ngũ ngôn buồn như mưa dầm rả rích canh khuya. Nghệ thuật dựng cảnh đối lập, song hành đã gợi lên bao xót thương thấm thía, bao xúc động đối với ông đồ già. Xưa kia "hoa tay thảo những nét - Như phượng múa rồng bay" thì nay "Giấy đỏ buồn không thắm - Mực đọng trong nghiên sầu". Xưa kia mỗi độ xuân về "hoa đào nở", ông đồ "Bày mực Tàu, giấy đỏ - Bên phố đông người qua" thì nay Ông đồ vẫn ngồi đấy cô độc giữa một đất trời tàn tạ, buồn thương "Lá vàng rơi trên giấy- Ngoài trời mưa bụi bay".Tứ thơ sâu sắc, hàm súc đặt cái sinh sôi hoa đào nở bên cái lụi tàn ông đồ già đặt cái hoa tay, tài năng thư pháp " phượng múa rồng bay" bên cái bất hạnh "người thuê viết nay đâu?". Và để cái cô độc "ông đồ vẫn ngồi đấy" giữa cái tấp nập dửng dưng của nhân quần "qua đường không ai hay", nhà thơ đã gửi gắm bao bùi ngùi thương câu 11, 12 đối nhau, giấy và nghiên mực được nhân hóa, nỗi buồn của một lớp người không gặp thời, bị gạt ra ngoài xã hội được đặc tả, được nhân lên nhiều lần, nỗi buồn đang biến thành nỗi đau tê tái"Giấy đỏ buồn không thắmMực đọng trong nghiên sầu"Một cuộc đời bị hắt hủi, sắc màu nhạt nhòa, tàn phai "buồn không thắm", sinh khí, chất đời, men đời khô dần, cặn lại "đọng trong nghiên sầu". Lấy giấy, mực để nói lên thân phận ông đồ; các từ ngữ "buồn", "không thắm", "sầu" với hai hình ảnh "giấy buồn", "nghiên sầu" đã cho thấy một ngòi bút già dặn trong nghệ thuật dùng từ, xây dựng hình ảnh và biểu câu cuối trong khổ 4 cũng là hai câu thơ tuyệt cú. Cái hay của câu thơ là đã nói lên sự xót thương đối với một kiếp người tàn tạ, mãn chiều xế bóng. Nhà thơ mượn cảnh để nói người, lấy "lá vàng rơi" và "mưa bụi bay" để nói lên số phận buồn thương của một lớp người bị gạt ra ngoài lề xã hội và dần dần vắng bóng"Lá vàng rơi trên giấy;Ngoài giời mưa bụi bay.""Lá vàng rơi" và "mưa bụi bay" trắng trời, ngập đầy trên giấy gợi tả cảnh buồn, đời buồn, một không gian đất trời buồn mênh mông. Phải chăng hai câu thơ này còn mang hàm nghĩa xót thương đời sống cộng đồng Việt một thời vong quốc nô "buồn không thắm" giữa một "trời mưa bụi bay" như có nhà nghiên cứu văn học đã nói?Khổ thơ cuối là cả một nỗi buồn thương thấm sâu vào câu, chữ. Cảnh đấy mà người đâu "Năm nay đào lại nở - Không thấy ông đồ xưa". Các từ ngữ "không thắm", "không ai hay" và "không thấy" như đưa dẫn người đọc vào cõi hư vô, bùi ngùi thương xót! Câu thơ cảm thán xoáy vào lòng người một tình thương vô hạn"Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ?"Thơ hay là lời hết mà tình còn. Vần thơ đã khơi gợi trong tâm hồn chúng ta nhiều trắc ẩn xót thương về hình bóng ông đồ già đáng thương khuất nẻo dương gian, xót thương một nền văn hóa lụi tàn. Người đã khuất bóng nhưng hồn thì bơ vơ! Hai câu kết như mở rộng cánh cửa hư vô đưa độc giả tiếp tục dõi tìm bóng dáng những người xưa "muôn năm cũ".Bài thơ "Ông đồ" là một bài thơ tuyệt bút. Ông đồ đã khuất nẻo dương gian, nhưng Vũ Đình Liên thì bất tử với "Ông đồ". Nhà thơ đã xây dựng và phát triển tứ thơ theo mạch thời gian. Hình tượng thơ được đặt trong thế song hành tương phản. Tấm lòng của tác giả đối với cảnh cũ người xưa rất chân thành, cảm động. Cái đã mất đi để lại cho nhà thơ và chúng ta nhiều trân trọng và xót thương. Bài thơ "Ông đồ" thấm đẫm một tinh thần nhân bản đáng tích bài thơ Ông đồ mẫu 7Nếu thơ Xuân Diệu có giọng điệu say đắm, rạo rực, thơ Hàn Mặc Tử có chút điên loạn, thơ Huy Cận có nỗi buồn ảo não thì thơ Vũ Đình Liên lại mang một giọng điệu hoài cổ. Mỗi người nghệ sĩ có phong cách thơ khác nhau, đây là nét riêng biệt để họ được phân biệt với các tác giả khác và cũng là ấn tượng riêng để bạn đọc nhớ đến họ. Tuy sáng tác không nhiều nhưng Vũ Đình Liên đã để lại cho văn học Việt Nam những tác phẩm giá trị, tiêu biểu là bài thơ “Ông đồ”.Bài thơ được sáng tác năm 1936 và được đăng trên tạp chí “Tinh hoa”. Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh nền Hán học đang mất dần vị thế của mình do sự xâm nhập của nền văn hóa phương Tây. Đây cũng là lúc các ông đồ không còn được trọng vọng do thời thế đã thay đổi. Nhan đề bài thơ gợi nhớ một nét đẹp đã lùi sâu vào dĩ vãng cùng sự tiếc thương vô đến ông đồ là nhắc đến những thầy dạy chữ Nho ngày xưa, mỗi dịp Tết đến xuân về ông thường xuất hiện bên đường phố để viết những câu đối đỏ“Mỗi năm hoa đào nởLại thấy ông đồ giàBày mực tàu giấy đỏBên phố đông người qua”.Hình ảnh này đã trở nên quen thuộc bởi Tết nào ông đồ già cũng xuất hiện cùng với mực tàu và giấy đỏ. Đó là thời đắc ý, thời vàng son của ông. Như một sự tuần hoàn của chu kì thời gian, mỗi dịp chuyển giao giữa năm cũ và năm mới, khi những cánh đào hồng tươi khoe sắc thắm thì đó cũng là lúc ông đồ xuất hiện. Không gian làm việc của ông là bên hãy hình dung dưới những bông hoa đào cùng tiết trời se lạnh có một ông đồ già đang vẽ những nét chữ điêu luyện và sự nhộn nhịp của bước chân người qua lại tạo nên một bức tranh thật tươi vui. Từ “mỗi”, “lại” đã phần nào thể hiện nhịp điệu đều đặn đào và ông đồ đã song hành, sóng đôi cùng nhau để tôn thêm vẻ đẹp của ngày Tết. Màu hồng của hoa đào, màu đen của thỏi mực, màu đỏ của giấy đã làm bức tranh thật sinh động. Tài năng viết chữ của ông đồ được mọi người ngợi khen, thán phục“Bao nhiêu người thuê viếtTấm tắc ngợi khen tàiHoa tay thảo những nétNhư phượng múa rồng bay”.Rất nhiều người thuê ông viết chữ, họ không chỉ quý trọng những nét chữ của ông mà họ còn dành cho ông một lòng kính trọng. Ông đã phô diễn tài năng của mình qua các câu đối đỏ, qua những nét chữ rồng bay phượng múa. Phải là một người am hiểu về Hán học, chữ Nho thì ông đồ mới có thể viết những nét chữ tài hoa đến như vậy. Phép tu từ so sánh “như phượng múa rồng bay” đã thể hiện được lòng ngưỡng mộ, sự tôn trọng của Vũ Đình Liên cũng như của nhân dân ta dành cho ông cũng là sự trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Chơi chữ là một thú vui thể hiện cốt cách thanh cao của người thưởng thức nó. Đồng thời, người viết chữ cũng được xem như một nghệ sĩ tài ba bởi nét chữ thể hiện được cái tâm, cái chí của người sáng tạo. Không những viết đẹp mà ông còn viết nhanh, điều này thật đáng khâm nét chữ uốn lượn một cách tài tình dưới đôi tay của một người có học thức khiến ai cũng muốn thuê ông viết cho câu đối đỏ. Có thể nói, thời đắc ý ông đồ vô cùng đông khách, người ta đến với ông vì sự thán phục những nét chữ phóng khoáng. Cả người viết chữ và người chơi chữ như có mối đồng cảm sâu sắc vì họ đều là người biết yêu và thưởng thức cái đẹp. Nhưng khi thời thế thay đổi cũng là lúc ông đồ không còn được trọng vọng, ngưỡng mộ“Nhưng mỗi năm mỗi vắngNgười thuê viết nay đâu?Giấy đỏ buồn không thắmMực đọng trong nghiên sầu…”Trước đây, người thuê ông đồ viết chữ nhiều là thế nhưng nay họ đã đi đâu hết? Họ vẫn ở đó, vẫn xuất hiện trong cuộc sống thường nhật nhưng sự xâm nhập của văn hóa phương Tây đã làm những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc bị mai một. Tác giả đã miêu tả một khung cảnh quạnh hiu,vắng vẻ đến thê lương. Thời gian đã cuốn trôi đi những gì tươi đẹp của quá khứ khiến con người không khỏi xót xa, tiếc hỏi tu từ “Người thuê viết nay đâu?” vang lên với bao đau đớn. Thực tại thú chơi chữ đã không còn được ưa chuộng, người chơi chữ, mua chữ cũng ít dần đi theo năm tháng. Nỗi buồn đã nhuốm sang cả cảnh vật, sang cả những gì vô tri vô giác. Giấy đỏ cũng biết buồn nên đã chẳng còn thắm, màu giấy đã phôi phai đi rồi nhạt dần, thỏi mực đã mài nhưng không được dùng đến nay cũng đọng lại trong pháp nhân hóa đã thể hiện tâm trạng u uất của ông đồ và cũng là sự xót xa, thương cảm của nhà thơ. Nền Hán học đã suy tàn nhưng với mong muốn lưu giữ lại những giá trị văn hóa mà ông đồ già vẫn kiên trì ngồi bên hè phố như bao năm trước“Ông đồ vẫn ngồi đấyQua đường không ai hayLá vàng rơi trên giấyNgoài giời mưa bụi bay”Nhưng sự xuất hiện của ông không được mọi người chú ý, quan tâm như thời vàng son. Bóng dáng ông cứ lặng lẽ qua đường, lặng lẽ bên phố mà không một ai hay biết. Hình ảnh ông đồ đã rơi vào quên lãng. Hình ảnh ấy chỉ là “cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn” Vũ Đình Liên.Sự tàn phai, úa rụng được thể hiện qua hình ảnh chiếc lá vàng cùng không khí lạnh lẽo của làn mưa bụi lất phất đã bao trùm lên toàn bộ khung cảnh khiến cảnh vật nhuốm màu sắc tâm trạng. Mọi người đã gạt ông đồ ra khỏi trí nhớ và kí ức, họ coi ông như người vô hình trong xã hội đương thời. Vũ Đình Liên đã bộc lộ nỗi xót xa, niềm hoài cổ của mình qua khổ thơ cuối“Năm nay hoa đào nởKhông thấy ông đồ xưaNhững người muôn năm cũHồn ở đâu bây giờ?”Ông đồ đã thực sự vắng bóng, đào vẫn khoe sắc hương, cảnh vật vẫn tuần hoàn theo quy luật tự nhiên nhưng ta không còn thấy sự xuất hiện của ông đồ nữa. Sự vắng bóng của ông khiến chúng ta không khỏi thương tiếc cho một giá trị tinh thần đã không còn tồn con người trước đây từng thuê ông đồ viết câu đối, những người từng tôn trọng ông đồ nay đã hoàn toàn thay đổi. Họ bận thích nghi với nền văn hóa mới từ Tây phương nên tâm hồn họ cũng không còn chỗ cho những tinh túy của văn hóa truyền thống. Câu hỏi tu từ vang lên ở cuối bài đọng lại bao sự cảm thương, hối tiếc cho những gì đã việc sử dụng hình ảnh hoa đào, ông đồ ở đầu và cuối bài thơ, tác giả đã khắc họa thành công hình ảnh trái ngược của ông đồ ở thời kì vàng son và ông đồ khi thất thế. Thể thơ năm chữ đã giúp nhà thơ bày tỏ cảm xúc một cách dễ dàng. “Ông đồ” là sự hoài niệm về những giá trị xưa cũ, bộc lộ niềm cảm thương sâu sắc của tác giả Vũ Đình tích bài Ông đồ mẫu 8Trong những ngày Tết đến xuân về náo nức trên mọi nẻo đường, người yêu thơ lại khẽ lắng mình trong một nhịp thơ giản dị đầy nhân văn của nhà thơ Vũ Đình Liên bài thơ "Ông đồ". Bài thơ ra đời khi ông đồ đã trở thành cái di tích của một thời tàn. Nho học đã bị thất sủng, người ta đua nhau chạy theo thời đại với chữ Pháp chữ đoạn đầu bài thơ, tác giả giới thiệu những ngày huy hoàng của ông đồBao nhiêu người thuê viếtTấm tắc ngợi khen tàiHoa tay thảo những nétNhư phượng múa rồng lời khen thật hào phóng, nhưng nghĩ kĩ đó chỉ là lời khen của những người ngoài giới bút nghiên. Đi viết câu đối thuê, bản thân việc ấy đã là nỗi lận đận, là bước thất thế của người theo nghiệp khoa bảng. Đỗ các thành quan nghè, quan thám, đỗ thấp thì cũng ông cử, ông tú, chứ ông đó là chưa đỗ đạt gì, công chưa thành, danh chưa toại, đành về quê dạy học, bốc thuốc, hay xem lí số ở nơi đô hội như có lần Tản Đà đã tết, mài mực bán chữ ngoài vỉa hè chắc cũng là việc bất đắc dĩ của nho gia. Chữ thì cho chứ ai lại bán. Bán chữ là cái cực của kẻ sĩ ở mọi thời. Bà con yêu quý và cũng thán phục cái thú chữ mà bà con không biết, hay chỉ võ vẽ, nên mới khen lao đến vậy. Lời khen này không mang lại vinh quang cho ông đồ, có thể ông còn tủi nữa, nhưng nó an ủi ông nhiều, nó là cái tình của người đời vào hồi vận mạt của giả giới thiệu cùng với hoa đào, mỗi năm mới có một lần chứ nhiều nhặn gì đâu, giấy đỏ mực tàu, chữ nghĩa thánh hiền bày trên hè phố. Đừng nghĩ đến chuyện khoa bảng, hãy nghĩ trên cương vị người bán, thì đây là hai đoạn thơ vui vì nó nói được sự đắt hàng, ông đồ còn sống được, có thể tồn tại trong cái xã hội đang biến động cuộc đời đã không như thế mãi, cái ý thích của người ta cũng thay đổi theo thời cuộc. Lớp người mới lớn không có liên hệ gì để mà quyến luyến cái thứ chữ tượng hình kia. Cái tài viết chân, thảo, triện, lệ của ông đồ chữ tốt kia, họ không cần biết đếnNhưng mỗi năm mỗi vắngNgười thuê viết nay đâu?Giấy đỏ buồn không thắmMực đọng trong nghiên sầu...Ông đồ vẫn ngồi đấyQua đường không ai hayLá vàng rơi trên giấyNgoài giời mưa bụi bayÔng đồ rơi vào tình cảnh một nghệ sĩ hết công chúng, một cô gái hết nhan sắc. Còn duyên kẻ đón người đưa, Hết duyên đi sớm về trưa một mình. Ông đồ vẫn ngồi đấy mà không ai hay. Cái hiện thực ngoài đời là thế và chỉ có thế, nó là sự ế hàng. Nhưng ở thơ, cùng với cái hiện thực ấy còn là nỗi lòng tác giả nên giấy đỏ như nhạt đi và nghiên mực hóa sầu tủi, Hay nhất là cộng hưởng vào nỗi sầu thảm này là cảnh mưa phùn gió thực trong thơ là hiện thực của nỗi lòng, nỗi lòng đang vui như những năm ông đồ "đắt khách" nào có thấy gió mưa. Gió thổi lá bay, lá vàng cuối mùa rơi trên mặt giấy, nó rơi và nằm tại đấy vì mặt giấy chưa được dùng đến, chẳng có nhu cầu gì phải nhặt cái lá ấy đi. Cái lá bất động trên cái chỗ không phải của nó cho thấy cả một dáng bó gối bất động của ông đồ rồi nhìn mưa bụi tả thật ít lời mà cảnh hiện ra như vẽ, không chỉ bóng dáng ông đồ mà cả cái tiêu điều của xã hội qua mắt của ông đồ. Tác giả đã có những chi tiết thật đắt nơi ông đồ là bút mực, nơi trời đất là gió mưa, nơi xã hội là sự thờ ơ không ai hay. Thể thơ năm chữ vốn có sức biểu hiện những chuyện dâu bể, hoài niệm, đã tỏ ra rất đắc địa, nhịp điệu khơi gợi một nỗi buồn nhẹ mà mưa bụi khép lại đoạn thơ thật ảm đạm, lạnh, buồn, vắng. Như vậy cũng chỉ với tám câu, bốn mươi chữ, đủ nói hết những bước chót của một thời tàn. Sự đối chiếu chi tiết ở đoạn này tới đoạn trên mực với mực, giấy với giấy, người với người, càng cho ta cái ấn tượng thảng thốt, xót xa của sự biến thiên. Có một khoảng thời gian trôi qua, khoảng trống của đoạn thơ trước khi vào bốn câu kếtNăm nay đào lại nởKhông thấy ông đồ xưaNhững người muôn năm cũHồn ở đâu bây giờ?Hãy trở lại câu thơ đầu bài Mỗi năm hoa đào nở để thấy quy luật cũ không còn đúng nữa. Ông đồ đã kiên nhẫn vẫn ngồi đấy, nhưng năm nay ông không còn kiên nhẫn được nữa Không thấy ông đồ xưa. Ông đã cố bám lấy xã hội hiện đại, lũ người hiện đại chúng ta đã nhìn thấy sự cố sức của ông, đã thấy ông chới với, nhưng chúng ta đã không làm gì, để đến bây giờ quay nhìn lại, mới biết ông đã bị buông rơi tự bao dáng ông đâu phải bóng dáng của một người, của một nghề, mà là dáng của cả một thời đại, bóng dáng kí ức của chính tâm hồn chúng ta. Đến bây giờ chúng ta mới thấy luyến tiếc, nhưng quá muộn rồi. Chúng ta hỏi nhau hay tự hỏi mình? Hỏi hay khấn khứa tưởng niệm, hay ân hận sám câu thơ hàm súc nhất của bài, chúng ta đọc ở đấy số phận của ông đồ và nhất là đọc được thái độ, tình cảm của cả một lớp người đối với những gì thuộc về dân tộc, về ngữ pháp câu thơ này rất lạ, nhưng không ai thấy cộm Những người muôn năm cũ. Muôn năm, thật ra chỉ là vài ba năm, nhưng nói muôn năm mới đúng, thời ông đồ đã xa lắc rồi, đã lẫn vào với những bút, những nghiên rất xa trong lịch muôn năm cũ của câu trên dội xuống chữ bây giờ của câu dưới càng gợi bâng khuâng luyến nhớ. Câu thơ không phải là nỗi đau nức nở, nó chỉ như một tiếng thở dài cảm thương, nuối tiếc khôn Phân tích bài thơ Ông đồ của Vũ Đình LiênVideo Phân tích bài thơ Ông đồ của Vũ Đình LiênTrên đây VnDoc đã giới thiệu tới các em Phân tích bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên. Hy vọng thông qua dàn ý và các bài văn mẫu lớp 8 ở trên, các em sẽ nắm được các ý chính cần có khi phân tích bài thơ Ông đồ, từ đó đạt điểm cao trong các bài thi Ngữ văn 8 sắp tài liệu trên, mời các bạn tham khảo thêm tài liệu Trắc nghiệm Lịch sử 8, Giải Toán 8, Tiếng Anh lớp 8 mới, Môn Vật lý 8 mà VnDoc tổng hợp và đăng tải. Hướng dẫn Vũ Đình Liên 1913 – 1996 thường được gọi là nhà thơ của "Ông đồ", một trong những bài thơ để lại nhiều âm vang nhất của phong trào Thơ Mới. Nếu phải kể tên 10 nhà thơ tiêu biểu nhất của trào lưu thơ ca này thì có thể chưa có tên ông. Nhưng nói đến 10 bài Thơ Mới tiêu biểu nhất thì không thể thiếu "Ông đồ". Bài thơ được đánh giá là "một bài thơ tuyệt tác" và được nhiều nhà nghiên cứu khai thác từ nhiều góc độ nhịp thơ ngũ ngôn, tính bi kịch, triết lý về thời gian, tình thương người, nỗi buồn hoài cổ, cảm hứng bi ca… Bài thơ đã được dịch sang tiếng Pháp và xung quanh nó có biết bao là đối thoại. Các bạn văn gọi Vũ Đình Liên là Ông đồ. Ông cũng tự nhận mình là "Ông đồ hiện đại" lettré moderne. Theo Hoài Thanh, "Ông đồ" là sự kết hợp của hai nguồn cảm hứng tình thương người và lòng hoài cổ và có thể nó còn là hợp lưu của nguồn cảm hứng thứ ba, đó là nghề dạy học. Vũ Đình Liên là một nhà giáo lâu năm. Bên cạnh việc làm thơ, ông còn viết nhiều sách giáo khoa. Cùng với một số người bạn cũng là nhà giáo, các ông thành lập Nhóm Lê Quý Đôn viết lịch sử văn học từ những năm 60 của thế kỷ trước và dịch các tác phẩm văn học Pháp. Hơn nửa thế kỷ dạy học, năm 1990 ông được nhận danh hiệu Nhà giáo Nhân dân. Ở Hà Nội có ba địa chỉ gắn bó sâu sắc với Vũ Đình Liên. Đó là Chùa Bộc, ngôi nhà 156B Bà Triệu và 11 phố Hàng Bông. Có thời gian ông sống từ bi, ẩn dật trong Chùa Bộc. Và có một ngày thu vàng nắng của năm 1986, ngôi chùa tĩnh lặng bỗng xôn xao náo nhiệt vì sự đông vui ồn ã khác hẳn ngày thường, khiến những người xung quanh không khỏi tò mò, ngạc nhiên. Đó là ngày bè bạn và các học trò của nhà thơ Vũ Đình Liên tổ chức kỷ niệm 50 năm ngày ra đời bài thơ "Ông đồ" dưới mái Chùa Bộc. Thời gian sống ở đây đã khiến ông suy ngẫm rất nhiều về đạo Phật. Vốn là người hướng nội, gần gũi với thập loại chúng sinh, hồn thơ ông càng thấm đẫm tinh thần bác ái của nhà chùa. Ông viết về Phật Bà "Nghìn mắt không nhìn hết khổ đau/ Nghìn tay nâng chẳng nhẹ u sầu"; về triết lý đời sống theo cảm nhận của riêng ông Đời người là đau khổ/ tình người là xót thương. Ngôi nhà ở Bà Triệu là nơi ông sống những năm cuối đời. Trên hè phố Bà Triệu, nhiều người thường gặp ông nhẩn nha đi bộ, gương mặt phúc hậu, mái tóc bạc, vầng trán mênh mông, bên hông lúc nào cũng đè nặng chiếc cặp da đen sờn cũ, đầy ắp sách vở, tư liệu, bản nháp thơ và chắc chắn trong đó không thể thiếu toàn tập thơ Baudelaire bằng tiếng Pháp và bản dịch của ông. Vũ Đình Liên rất mê Baudelaire. Ông đã dịch "Những bông hoa ác" và hàng trăm bài thơ của tác giả này. Ông say mê đến mức mọi người gọi ông là Bôđơ… Liên. Và có nhà thơ Pháp đã gọi ông là "Baudelaire Vietnamien". Ngôi nhà 11 phố Hàng Bông thường được gọi là Gác Lưu xá, là một nơi chốn đầy ý nghĩa trong đời sống tinh thần của Vũ Đình Liên. Đây là nhà riêng của nghệ sĩ nhiếp ảnh Trần Văn Lưu, một người nổi tiếng trong giới văn nghệ sĩ Thủ đô. Ông đã lưu giữ được nhiều tấm ảnh, bức tranh và tư liệu văn học nghệ thuật quý hiếm. Ngôi nhà này là nơi gặp gỡ và đàm đạo văn chương của ba nghệ sĩ nhà thơ Vũ Đình Liên, họa sĩ Bùi Xuân Phái và nhà nhiếp ảnh Trần Văn Lưu. Do đó căn gác này còn những tên gọi khác nữa là "Lầu Tình bạn" hay "Bảo tàng Lưu – Liên – Phái". Tại đây có treo đôi câu đối Nhân loại xây Đền Văn hoá mới – Hoà bình dựng Tháp Đại đồng xưa, do Vũ Đình Liên làm và Bùi Xuân Phái viết. Tại ngôi Đền Văn hoá này, vào dịp kỷ niệm ngày sinh, ngày giỗ của Nguyễn Du, Lê Quý Đôn, Nguyễn Đình Chiểu, Hugo, Baudlaire… trầm hương trên bàn thờ lại thành kính toả khói nghi ngút để tưởng nhớ những bậc tài danh của đất nước và nhân loại. Sinh thời Vũ Đình Liên là một người trọng tình bạn và luôn xót thương những người bần hàn, khổ sở. Có những ngày Tết, ông gói một đùm bánh chưng rồi ra đi không ăn Tết ở nhà. Con cháu đi tìm thì thấy ông đang ngồi ăn cùng với vài người cơ nhỡ ở sân ga. Nhắc đến Vũ Đình Liên, người ta thường nhắc đến "Ông đồ" mà ít người biết tới một chùm thơ về người đàn bà điên khá độc đáo, liên quan đến thói quen của ông. Có thể nói chùm thơ này biểu hiện tập trung phong cách thơ Vũ Đình Liên sau 1945, thể hiện rõ nét sự ảnh hưởng sâu sắc thơ Baudelaire, từ nghệ thuật cấu tứ cho đến hình ảnh, ngôn từ, âm điệu. Tết năm Bính Thìn 1977 nhà thơ lên Thái Nguyên ăn Tết với bà con, bạn bè. Khi tàu hoả đến ga Lưu Xá, cách Thái Nguyên khoảng 10 cây số, ông gặp một người đàn bà điên áo quần tả tơi, ngồi bệt dưới sàn tàu. Người điên và nhà thơ nhìn nhau xót thương, một mối tình câm lặng. Ngay đêm hôm đó ông làm bài thơ "Người đàn bà điên ga Lưu Xá" "Người đàn bà điên ga Lưu Xá/ Ngồi ngay trước mặt dưới chân tôi/ Ai vẽ được thiên tài hội họa/ Chân dung kia kinh tởm tuyệt vời/ Công chúa điên rồ và rách rưới/ Hình ảnh lạ lùng chửa có hai/ Cả tưởng tượng Đông Tây cộng lại/ Khôn dựng nên dù một phần mười/ Bao tải xơ ni lông nát vụn/ Sợi dây thừng buộc mũ rách bông/… Tôi ngồi ngắm mắt không hề mỏi/ Đống rác kia xưa đã là hoa… Ai dun dủi và ai sắp đặt/ Một nhà thơ với một người điên/ Tôi bắt gặp ba lần cặp mắt/ Nhẹ căm thù như muốn làm duyên"… Lúc này trong toa xe mọi người đã xuống hết, không còn ai nữa. Nhà thơ lấy trong túi xách ra một góc bánh chưng, một gói mứt sen nhỏ, hai tay nâng gói quà Tết trao cho người đàn bà điên "Người nhận quà đưa tay đón tay/ Chẳng rằng chẳng nói mặt như ngây/ Chia tay không một lời hò hẹn/ Hai mặt ảnh hình bốn mắt ghi/… Tôi đi tìm đến những người thân/ Bè bạn cháu con xa với gần/ Ngày Tết cổ truyền vui thiếu đủ/ Nhìn mặt người như ngắm hoa xuân/ Còn tôi biết cuộc đời đã trút/ Lên hoa kia sương tuyết nặng dày/ Đời độc ác lòng người bội bạc/ Làm hoa kia thành đống rác này/ Đời sẽ đổi lòng người sẽ đổi/ Sẽ trở về tình xót nghĩa thương/ Hãy trút hết áo quần hôi thối/ Cho thịt da lại toả hương thơm/ Người em Lưu Xá ở đâu đây/ Có thấy ấm lòng xuân nắng hây/ Một đóa hoa tàn nay nở lại/ Thắm hồng trong buổi mới xuân nay". Mười năm sau, 1987 cũng ở ga Lưu Xá, nhà thơ gặp lại người đàn bà đó, tuy vẫn còn hoang dại nhưng đã bớt phần rách rưới điên loạn. Dưới bóng trăng mờ, người đàn bà nắm tay nhà thơ và đưa tiễn ông đến hai ga sau. Ngay sau đó ông sáng tác bài thơ "Gặp lại người đàn bà điên" ghi lại cảm xúc của mình. Năm năm sau, 1992 người đàn bà đến tìm nhà thơ ở nhà riêng tại phố Bà Triệu. Bây giờ người điên ấy đã là một cô gái đẹp. Một mối tình huyền thoại. Và ông viết tiếp bài thơ "Người điên – Nàng tiên" "Đông Tây, Thi Họa tương phùng/ Cổ kim nghệ thuật tình thương thần kỳ…/ Thịt da trầm tỏa hương bay/ Như hồi đôi tám thơ ngây má hồng". Trong lần gặp gỡ đầu tiên, nhà thơ của tình thương đã nhìn thấy ở "cái xác thối tha ấy" một bông hoa toả hương, một mối tình xưa tinh khiết. Có lẽ đó là cảm hứng bắt nguồn từ nhiều bài thơ của Baudelaire mà ông đã dịch và ngấm vào trong máu thịt Hãy yêu họ, vì dưới những manh quần rách tã/ Những tấm áo mong manh vẫn là những tâm hồn". Thơ Baudelaire qua bản dịch của Vũ Đình Liên. Cũng như "Ông đồ", xung quanh bài thơ này lại có bao lời bình luận và đối thoại. Họa sĩ Bùi Xuân Phái đã minh họa người đàn bà điên trong một bức tranh kỳ dị và Trần Văn Lưu là người đã cất giữ bức tranh này. "Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ". Đó là một câu hỏi đầy khắc khoải vang lên như tiếng nói từ nghìn xưa vọng về. "Ông đồ vẫn ngồi đấy/ Qua đường không ai hay". Nhưng có một người đã "hay" và may sao người đó lại là ông – nhà thơ Vũ Đình Liên, người đã xót xa, lặng lẽ, cảm thông để viết nên bài thơ sống mãi cùng năm tháng Topics bánh chưng bảo tàng bình luận Cảm nhận Đất nước hiện đại Hoài Thanh ngày tết ngôi nhà người thân Nguyễn Đình Chiểu nguyễn du Ông đồ tác giả Vũ Đình Liên tết cổ truyền thời gian thuyết minh tình bạn tưởng tượng văn học Vũ Đình Liên Giới thiệu về tác giả Vũ Đình LiênVũ Đình Liên là một nhà thơ, nhà giáo nhân dân Việt Nam. Bài thơ Ông đồ được coi là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông cũng như trong thời kì thơ mới. Tác phẩm Ông đồ đã được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn lớp 7 tập 1 của bộ sách Cánh Diều. Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ một số thông tin giới thiệu tác giả Vũ Đình Liên và bài thơ Ông đồ, mời các bạn cùng tham hiểu tác giả Đỗ Trung Lai1. Sơ đồ tư duy tác giả Vũ Đình Liên2. Tác giả Vũ Đình LiênVũ Đình Liên 12 tháng 11 năm 1913- 18 tháng 1 năm 1996, là một nhà thơ, nhà giáo nhân dân Việt Nam. Bài thơ Ông Đồ của ông được một nhà phê bình văn học xem là một trong mười bài thơ tiêu biểu cho phong trào Thơ MớiVũ Đình Liên sinh tại Hà Nội, nhưng quê gốc ở thôn Châu Khê, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải đỗ tú tài năm 1932, từng dạy học ở các trường Trường tư thục Thăng Long, Trường Gia Long, Trường nữ sinh Hoài Đức để kiếm sống. Ông học thêm trường Luật đỗ bằngcử nhân, về sau vào làm công chức ở Nha Thương chính còn gọi là sở Đoan Hà 1936, ông được biết đến với bài thơ "Ông đồ" đăng trên báo Tinh HoaSau Cách mạng tháng Tám, ông tham gia giảng dạy nhiều năm và từng là chủ nhiệm khoa tiếng Pháp của Đại học Quốc gia Hà thơ ông còn hoạt động trong lĩnh vực lý luận, phê bình văn học và dịch thuật. Ông là hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam- Tác phẩm tiêu biểu Lũy tre xanh, Mùa xuân cộng sản, Hạnh phúc…- Phong cách sáng tác Thơ ông mang nặng nỗi niềm xưa, nỗi niềm hoài cổ, hoài Tác phẩm Ông đồ1. Xuất xứ"Ông đồ" ra đời năm Thể thơ"Ông đồ" được viết theo thể thơ ngũ ngôn năm chữ. Thể thơ ngũ ngôn gieo vẫn chân ở tiếng cuối câu; vần cách, vần kiền, bằng trắc xen kẽ hoặc nối Đề tàiNhững giá trị truyền thống tốt đẹp của dân Chủ đềNiềm cảm thương chân thành trước một lớp người đang tàn tạ và nỗi nhớ tiếc cảnh cũ người Bố cụcBài thơ được chia thành ba phầnPhần 1 Hai khổ thơ đầu Hình ảnh ông đồ thời hoàng kimPhần 2 Hai khổ tiếp theo Hình ảnh ông đồ thời tànPhần 3 Khổ cuối Tâm tư của tác giảMời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trong nhóm Lớp 7 thuộc chuyên mục Học tập của

tác giả vũ đình liên và bài thơ ông đồ